nguồn: New York Times,
biên dịch: Takya Đỗ,
Trong “Walk the Walk” (“Nói là làm”), Neil Gross miêu tả ba sở cảnh sát nước nhà đang thử nghiệm một cuộc cải cách thực thụ.
Khi nói đến hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát, đất nước này không dành cho những người lạc quan: Dường như rất ít người Mỹ tin vào hứa hẹn cải cách.
Ở phía cánh tả, những cảnh sát theo chủ nghĩa bãi nô nhấn mạnh rằng hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát ở Mỹ gắn kết hết sức chặt chẽ với nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực đến nỗi những nỗ lực cải cách nhìn vào mặt tích cực nhất là không thích đáng và nhìn vào mặt tiêu cực nhất là bất chính, vì nó được sử dụng để biện minh cho một thể chế hung tàn bạo ngược. Ở phía cánh hữu, những người tự thể hiện mình là người ủng hộ “bộ cảnh phục xanh lam” khẳng định những cải cách mang tính chất “cảnh giác trước thành kiến chủng tộc và phân biệt chủng tộc” dẫn đến tình trạng các sở cảnh sát không được cung cấp tài chính đầy đủ và bị sa ngã, buộc phải bất lực ngồi nhìn tội phạm bạo lực gia tăng.
Thế còn phía trung dung thì sao? Mặc dù các cuộc thăm dò cho thấy đa số người Mỹ ủng hộ cải cách cảnh sát, nhưng chưa đến 1/3 cho biết họ lạc quan là sẽ có tiến bộ. Tại Quốc hội, những nỗ lực lớn về cải cách của ngành cảnh sát đã dậm chân tại chỗ, và tình trạng này dường như khó có khả năng thay đổi.
Giữa mọi hoài nghi này xuất hiện cuốn sách mới của Neil Gross, giáo sư xã hội học của Đại học Colby. Trong cuốn “Walk the Walk: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture” (“Nói là làm: Ba vị sếp cảnh sát đã vượt qua nghịch cảnh và thay đổi văn hóa cảnh sát ra sao”), Gross trình bày một luận cứ sáng suốt và nhiệt thành ủng hộ giá trị của những thay đổi nho nhỏ về văn hóa, lần lượt từng sở cảnh sát một.
Gross cảm thấy ngã lòng trước bầu không khí bi quan đang lan rộng trong các nhà hoạch định chính sách. Cứ như thể, ông viết, họ “không thể tưởng tượng được hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát một cách đạo đức, hiệu quả và dân chủ sẽ có tác dụng thế nào”. Song nếu những cuộc cải cách đã không mang lại kết quả trong quá khứ, theo lập luận của ông, chẳng phải là vì chúng không thể mang lại kết quả, mà là bởi những nhà cải cách chưa quan tâm đủ mức đến sự cần thiết phải làm thay đổi triệt để văn hóa cảnh sát, vốn “khét tiếng là khép kín” và “nghi ngờ người ngoài”. Việc bắt buộc tiến hành cải cách ở các sở cảnh sát đầy rẫy những sĩ quan chai sạn, luôn hoài nghi cũng giống như gieo hạt giống cỏ lên tấm kim loại: Nếu cỏ không mọc, ta không thể đổ lỗi tại hạt giống.
Nhưng mặc dù văn hóa hành pháp thiển cận có thể khiến các sở cảnh sát cực lực phản đối cải cách, Gross – người từng là sĩ quan cảnh sát một thời gian ngắn hồi đầu những năm 1990 ở Berkeley, California – khăng khăng rằng việc thay đổi triệt để hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát vừa là cần thiết vừa có thể thực hiện được. Chính hàng ngũ lãnh đạo, theo lập luận của ông, là những người có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi: Văn hóa hành pháp có thể thay đổi khi các sở cảnh sát có những vị lãnh đạo sáng tạo có “đầu óc tổ chức, kỹ năng giao tiếp với các cảnh sát và người dân, nhận thức lịch sử, tính khiêm tốn và sự kiên trì”.
Các vị sếp giỏi biết khi nào nên thúc giục, và khi nào nên tạo áp lực một cách nhẹ nhàng. Họ cho làm quen với những cải cách tăng dần, thay vì bắt buộc phải thay đổi trước khi các sĩ quan sẵn sàng thay đổi – và khi các sở cảnh sát trở nên cởi mở hơn với việc thay đổi, những cải cách tăng dần đó có thể bắt đầu gia tăng. Khi chúng ta có thêm nhiều sự hợp tác chặt chẽ của cảnh sát với cộng đồng, thêm nhiều sự sẵn lòng giảm bớt việc dừng phương tiện giao thông đối với những vi phạm nhỏ, thêm nhiều lựa chọn thay thế cho việc giam giữ và thêm nhiều nỗ lực hơn để tuyển dụng lực lượng cảnh sát đa dạng, mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn đối với các cộng đồng này. Sẽ có ít vụ lạm quyền của cảnh sát hơn, ít vụ bắt giữ hơn – và ít tội phạm hơn.
Gross dàn ý cuốn sách của mình xoay quanh ba nghiên cứu điển hình: Stockton, tiểu bang California; Longmont, tiểu bang Colorado; và LaGrange, tiểu bang Georgia. Ở một số phương diện, ba thành phố đó khó mà khác nhau hơn được nữa, song theo lời Gross, mỗi thành phố đều được hưởng lợi vì có vị sếp cảnh sát tận tâm, giàu sáng tạo mà mọi sở cảnh sát đều cần có.
Tại Stockton, vị sếp sở cảnh sát là Eric Jones ủng hộ khái niệm “công lý tố tụng”, phương thức hoạt động nghiệp vụ của cảnh sát nhấn mạnh vào tính minh bạch, công bằng, vô tư và sẵn sàng cho phép công dân lên tiếng. Ông hỗ trợ các sĩ quan khi họ phát triển chương trình đào tạo mới về công lý tố tụng; ông thành lập ban cố vấn cộng đồng và tổ chức các hội thảo xây dựng lòng tin với những người chỉ trích cảnh sát. Nhưng ông cũng chiếm được lòng tin từ các sĩ quan của mình bằng cách lắng nghe những mối quan tâm của họ. Ông kiếm được khoản tài trợ cho các thiết bị mới đắt tiền và quan tâm đến việc tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với công đoàn của cảnh sát.
Ở LaGrange, vị sếp sở cảnh sát là Lou Dekmar cũng đầu tư như vậy vào thiết bị mới và tăng lương cho các sĩ quan, song ông cũng đưa ra các chính sách bắt buộc phải giảm bạo lực và xung đột và cải thiện việc đào tạo sĩ quan. Trong thời gian làm sếp sở cảnh sát, ông tăng đáng kể tỷ lệ giải quyết các vụ án mạng của Sở Cảnh sát và giảm việc sử dụng vũ lực của cảnh sát. Năm 2017, Dekmar thành tin nóng trên báo đài toàn quốc khi công khai xin lỗi về sự đồng lõa của sở cảnh sát trong vụ hành hình kiểu lynch một thanh niên da đen hồi năm 1940.
Ở Longmont, vị sếp sở cảnh sát là Mike Butler ủng hộ “công lý phục hồi”, phương pháp tiếp cận tội phạm – khi có sự đồng ý của nạn nhân – cho phép thủ phạm thừa nhận tổn thương mà chúng gây ra, xin lỗi và bồi thường thay vì phải đối mặt với việc bị truy tố và bỏ tù. Ông cũng áp dụng phương pháp giảm thiểu tác hại đối với việc sử dụng ma túy. Thay vì cố gắng “ngăn chặn việc sử dụng ma túy bằng cách truy tố hình sự các nhà sản xuất, người buôn bán và người sử dụng”, Butler tập trung vào việc liên kết cảnh sát với các dịch vụ xã hội “để điều trị chứng nghiện và cải thiện các nguyên nhân cốt lõi của nó”. Phương pháp này thừa nhận rằng mặc dù việc loại bỏ hoàn toàn tội phạm liên quan đến ma túy là phi thực tế, nhưng việc đảm bảo rằng người sử dụng ma túy gây “tổn hại ở mức ít nhất cho bản thân họ và cho cộng đồng” nằm trong khả năng của chúng ta.
Với tư cách một câu chuyện, “Walk the Walk” không thành công trọn vẹn. Gross nhảy từ chuyện này sang chuyện khác, ông thường giới thiệu những nhân vật và giai thoại mới không hoàn toàn gắn kết với lập luận trọng tâm của cuốn sách. Tác giả cố gắng miêu tả các sĩ quan cảnh sát là những người nhân đạo bằng cách tập trung vào Jones, Dekmar và Butler, nhưng các nhân vật chính của ông vẫn tẻ nhạt – những nhân vật thể hiện đức hạnh trong một vở kịch đạo đức, thay vì những con người phức tạp.
Độc giả mà Gross nhằm đến cũng có phần không rõ ràng. Mặc dù ông đưa chuyên môn của một học giả vào chủ đề của mình, song thỉnh thoảng ông cố gắng đạt được sự dễ hiểu thì lại làm hỏng sắc thái, và văn phong của ông ngoặt sang lối đơn giản thái quá. Có lúc ông lao vào sự khuôn sáo: “Đất nước này như một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung”.
Nghiêm trọng hơn, Gross không giải quyết được đầy đủ luận đề con-gà-và-quả-trứng, luận đề khiến cho sự thay đổi triệt để của cảnh sát trở nên rất khó nắm bắt: Những thay đổi về chính sách sẽ không hiệu quả trừ phi văn hóa cảnh sát thay đổi, nhưng không rõ văn hóa cảnh sát có thay đổi được hay không nếu không thay đổi chính sách. “Walk the Walk” dựa dẫm hơi nhiều quá vào vị Sếp Cảnh sát tốt bụng như một vị cứu tinh bất ngờ xuất hiện. Nhưng những nhà lãnh đạo mang đến sự thay đổi triệt để này ở đâu ra? Liệu đội ngũ lãnh đạo như vậy có thể được bồi dưỡng, hay đó chỉ là tình huống hoàn toàn ngẫu nhiên? Liệu những cải cách từ trên xuống có mang lại kết quả nếu không có thay đổi từ dưới lên? Không phải lúc nào Gross cũng đặt câu hỏi – hoặc có sẵn câu trả lời.
Dù sao mặc lòng, “Walk the Walk” vẫn là cuốn sách sâu sắc và quan trọng. Vào thời điểm đất nước này quả thực là một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung, sự lạc quan của Gross về cải cách cảnh sát mang lại liều thuốc giải độc cho sự hoài nghi và u ám thâm nhập hầu khắp các cuộc thảo luận như vậy. Cuốn sách của ông đầy sự đồng cảm và tính thực dụng. “Chúng ta không thể xóa sổ lực lượng cảnh sát, không phải trong tương lai gần,” ông cảnh báo – nhưng mặc dù những viễn cảnh không tưởng về một thế giới không có hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát có thể rất xa tầm với, cũng chẳng có lý do gì để từ bỏ những cải cách nhỏ hơn.
Gross chưa từng tuyên bố thẳng thừng điều đó, nhưng cách ông tiếp cận hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát – chẳng khác gì phương pháp tiếp cận việc sử dụng ma túy của vị sếp sở cảnh sát Butler kia – tập trung vào việc giảm thiểu tác hại. Gross thừa nhận rằng việc tạo ra một văn hóa cảnh sát tốt đẹp hơn không phải là “cái thay thế cho sự thay đổi về cơ cấu trong hệ thống tư pháp hoặc trong xã hội Mỹ nói chung”, và những cuộc cải cách sẽ không hủy bỏ được di sản độc hại của nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực. Tuy nhiên, một số sở cảnh sát tốt hơn những sở khác, và mọi sở cảnh sát đều có thể tốt hơn lên.
Nếu chúng ta có thể “thúc giục các cơ quan ở địa phương chúng ta thay đổi suy nghĩ về văn hóa và hoạt động của họ” và hỗ trợ các lãnh đạo cảnh sát sáng suốt như Jones, Dekmar và Butler, các cộng đồng của chúng ta có thể trở thành những nơi an toàn hơn, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Đơn giản thái quá ư? Chắc thế. Nhưng nó còn tốt hơn rất nhiều so với không có gì.
WALK THE WALK: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture | By Neil Gross | 259 pp. | Metropolitan Books | $27.99
Rosa Brooks is a professor at Georgetown University Law Center and the author of “Tangled Up in Blue: Policing the American City.”
https://www.nytimes.com/2023/03/21/books/review/walk-the-walk-neil-gross.html