Search This Blog

Saturday, November 2, 2024

Mỹ đã thắng Cuộc chiến thời trang (hoặc, chí ít là Trận chiến quần nỉ bo gấu) như thế nào?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Quần áo thể thao giống như bộ trang phục năm 1952 này của Claire McCardell đã được thiết kế cho lối sống Mỹ năng động, ít trang trọng hơn.

Trong cuốn “Empresses of Seventh Avenue” (“Những nữ hoàng của Đại lộ Thời trang”), nhà văn chuyên viết về thời trang Nancy MacDonell kể câu chuyện về những người phụ nữ New York đã tạo ra phong cách hiện đại.

“Thanh lịch nghĩa là biết cự tuyệt”, Coco Chanel được cho là đã nói thế. Pierre Balmain nhắc nhở khách hàng của mình rằng “Khắt khe, luôn khắt khe”, trong khi Karl Lagerfeld chỉ rõ, khi nhằm vào những người không khắt khe, rằng: “Quần nỉ bo gấu là dấu hiệu của sự thất bại”. Thế còn Sonia Rykiel thì sao? “Làm sao bạn có thể sống cuộc sống thời thượng nếu không mang giày cao gót?”

Uy quyền của các nhà thiết kế thời trang vĩ đại của Pháp từ lâu không chỉ nằm ở những sáng tạo quyến rũ mà còn ở những tuyên ngôn giáo điều của họ thường hay được người ta trích dẫn. Và trong khi phản ánh sự đánh đồng mặc nhiên của người Pháp giữa cái đẹp với sự chịu đựng, những tuyên ngôn này đồng thời cho rằng kỷ luật – thậm chí là khó chịu – là điều kiện tiên quyết tất yếu của phong cách thanh lịch.

May mắn làm sao cho những ai trong số chúng ta nghiện quần áo nỉ và giày đế bằng vì các nhân vật nữ chính trong cuốn sách mới rất hấp dẫn của Nancy MacDonell là “Empresses of Seventh Avenue: World War II, New York City, and the Birth of American Fashion” (“Những nữ hoàng của Đại lộ Thời trang: Thế chiến II, Thành phố New York và Sự ra đời của Thời trang Mỹ”) đã ra mắt và giải phóng phụ nữ Mỹ khỏi sự chuyên chế của phong cách thời trang đẳng cấp của Pháp.

Trước Thế chiến II, sự chuyên chế đó là toàn trị ở New York, nơi là trung tâm thương mại hàng may mặc của Mỹ, cũng như ở Paris, nơi ra đời và là kinh đô ngành thời trang cao cấp của Pháp. Ngành này của Pháp đã cung cấp (và vẫn đang cung cấp) những tác phẩm thời trang lộng lẫy được chế tạo công phu, đắt đến chóng mặt và chủ yếu là lễ phục được thửa riêng cho nhóm khách hàng tinh hoa chỉ gồm vài trăm người trên toàn thế giới. Nhưng nó cũng là nguồn cảm hứng cho các bản sao thời trang cao cấp được sản xuất hàng loạt đã thống trị thị trường trang phục nữ ở Mỹ sau khi Thế chiến I chấm dứt.

Theo nhận xét của MacDonell, điều này chẳng mấy quan trọng đối với những nhà quản lý ngành may mặc ở Mỹ khi “những người phụ nữ đặt mua cả tủ quần áo từ các hãng thời trang cao cấp sống một cuộc sống hoàn toàn khác, với những nhu cầu hoàn toàn khác, so với những phụ nữ mua sắm quần áo may sẵn với ngân sách hạn hẹp”. Nó cũng chẳng khiến họ quan ngại về việc chiếc váy mà một nữ hầu tước mặc đến “những cuộc đua ngựa ở Auteuil” – một phụ nữ với ngân sách không giới hạn, có đầy tớ và “được miễn trừ khỏi những mối lo lắng thường nhật như công việc” – không có ý nghĩa gì mấy đối với “một nhân viên đánh máy ở Brooklyn” đang trên đường đến đảo Coney. Vậy là, cho đến khi lịch sử can thiệp vào, ngành may mặc Mỹ đã nhồi cho các nữ khách hàng những món quần áo đều đều vô vị mà họ không muốn hoặc không cần, gợi ý cho nhà thiết kế người Mỹ Elizabeth Hawes đặt ra một châm ngôn đáng nhớ của bà hồi năm 1938: “Thời trang là món rau chân vịt [nhạt nhẽo]."

Cách mà Hawes và một số phụ nữ Mỹ có tư duy tiến bộ khác làm cho đồng bào của họ dần từ bỏ trang phục màu xanh lá là câu chuyện đặc sắc mà MacDonell, nhà báo giữ chuyên mục thời trang của tờ The Wall Street Journal, kể lại bằng giọng văn sống động và những tình tiết lịch sử phong phú. Sự kiện mở đầu là cuộc xâm lược Paris của Đế chế Thứ Ba vào tháng 6 năm 1940, và tiếp theo sau đó việc thành phố này bị Đức Quốc xã chiếm đóng bốn năm liền. Thời kỳ này là thời kỳ đen tối đối với các nhà thiết kế thời trang Pháp, những người buộc phải đóng cửa các hãng thời trang của mình hoặc phải may đồ cho vợ một tên sĩ quan Đức Quốc xã thỉnh thoảng mới ghé thăm.



Sự kiện này cũng dẫn đến lệnh cấm vận đối với hàng xuất khẩu từ Paris đi Mỹ và các phóng viên Mỹ ở Paris: hai nguồn mà ngành may mặc của Mỹ trước đây dựa vào để tạo ra hàng nhái. Năm 1940, sự kiện Paris thất thủ dường như báo hiệu sự cáo chung của “thời trang” ở Mỹ, cho đến khi một nhóm những người có ý tưởng táo bạo ở New York phát triển giải pháp thay thế của-nhà-trồng-được hấp dẫn khó cưỡng: “thứ quần áo thoải mái, dễ mặc, tiện lợi, hầu như tùy tiện, có thể mặc được cho nhiều mục đích khác nhau”, được đặc trưng bởi “sự thanh lịch không giả tạo”. Thứ quần áo này đã tạo nên nền tảng của một thể loại hoàn toàn mới, rất Mỹ, được gọi là trang phục thể thao. Được lan tỏa trên quy mô lớn nhờ năng lực sản xuất hùng mạnh của Đại lộ Thời trang (Seventh Avenue), nó nhanh chóng cách mạng hóa trang phục của phụ nữ.

Những nhà thiết kế dẫn đầu cuộc cách mạng này là Hawes và Claire McCardell, một người cũng là nhà tiên phong về trang phục thể thao như bà, nhưng như MacDonell nhấn mạnh, họ đã nhận được sự hỗ trợ cốt yếu từ những nhân vật có tầm nhìn xa trông rộng giống họ trong nhiều lĩnh vực liên quan. Các nhân vật khác trong dàn toàn phụ nữ và đa dạng của bà gồm từ những biên tập viên tạp chí như Carmel Snow và Diana Vreeland, những người đấu tranh không mệt mỏi vì xu hướng thẩm mỹ mới “đơn giản hơn, phong cách hơn và đỡ rườm rà hơn”, cho đến các phóng viên thời trang như Virginia Pope và Lois Long, cả hai đều là “những người ủng hộ thời trang Mỹ rất trung thành.” Chúng ta sẽ gặp những nhà bán lẻ sáng tạo như Dorothy Shaver của chuỗi cửa hàng bách hóa Lord & Taylor, người phụ nữ đầu tiên ở Mỹ kiếm được mức lương sáu con số, và những chuyên gia PR sáng tạo như Eleanor Lambert, người phát minh ra Danh sách mặc đẹp nhất quốc tế và Lễ hội thời trang Met Gala.

Chỉ trong vòng vài năm, những người phụ nữ này đã tạo dựng nên ngành thời trang Mỹ như ngày nay chúng ta vẫn biết về nó. Ít hình thức và cầu kỳ, nó vẫn là thành trì của phong cách thanh lịch thoải mái, phóng khoáng, hoàn toàn hiện đại, và mặc dù đã phát triển thành một ngành kinh doanh hàng tỷ đô-la, nó vẫn hoạt động trên nguyên tắc rằng thời trang có thể “vừa đẹp đẽ vừa dân chủ”.

Việc những người phụ nữ đằng sau câu chuyện thành công vĩ đại này đến nay hầu hết bị lãng quên là một sai sót mà MacDonell đã sửa lại với sự nhiệt tình và, tôi dám nói rằng, sự thanh lịch – đơn giản là cự tuyệt cái tiền đề đã lỗi thời rằng người Pháp là “những quan tòa duy nhất khả dĩ về phong cách”.

EMPRESSES OF SEVENTH AVENUE: World War II, New York City, and the Birth of American Fashion | By Nancy MacDonell | St. Martin’s | 358 pp. | $32

Caroline Weber, a professor of French and comparative literature at Barnard College and Columbia University, is a frequent contributor to the Book Review.

How America Won the Fashion War (or, at Least, the Sweatpants Battle)

https://www.nytimes.com/2024/09/01/books/review/nancy-macdonell-empresses-of-seventh-avenue.html

Một trại tị nạn ở Hy Lạp bị cháy rụi. Hậu quả thậm chí còn tai hại hơn.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,




Trận hỏa hoạn thảm khốc năm 2020 trên đảo Lesbos là cú huých để suy ngẫm về những câu chuyện về nguồn gốc, biên giới và cuộc di cư trong cuốn sách “A Map of Future Ruins” (“Bản đồ tàn tích tương lai”) của Lauren Markham.

Hơn ba năm sau sự cố đó, chúng ta vẫn chẳng biết gì nhiều về vụ việc đã xảy ra ngày 8/9/2020 ở trại di tản có tên Moria trên hòn đảo Lesbos của Hy Lạp. Đêm đó, một ngọn lửa bùng phát ở Khu 6 của trại Moria, một trong những khu vực tạm thời tiếp giáp các bức tường của khu trại chính. Ngọn lửa thiêu rụi những căn lều, than hồng bị gió cuốn đi, khiến hầu hết trong số 11.000 cư dân của Moria trở thành vô gia cư.

Gần như mọi thứ khác về vụ hỏa hoạn này đều gây tranh cãi. Chỉ trong vài ngày, chính quyền Hy Lạp bắt giữ sáu thanh niên Afghanistan, kết án họ trong hai phiên tòa gấp gáp trong vòng chín tháng tiếp theo. Trong một phiên tòa, các thẩm phán nghị án chỉ chưa đầy 10 phút trước khi đưa ra phán quyết có tội; trong phiên tòa còn lại, nhân chứng duy nhất của chính phủ, lời khai của người này vốn đã hổng lỗ chỗ, thậm chí còn chẳng có mặt tại tòa.

Theo lời Lauren Markham, thời điểm đó do những cấm chế vì đại dịch Covid, nên đây là những tháng cô phải “theo dõi vụ án từ xa”. Cô đã đến trại Moria hồi năm 2019, trải nghiệm mà cô miêu tả trong “A Map of Future Ruins”, cuốn sách mới đầy suy tư của cô về biên giới và danh tính. Năm 2021, cô quay trở lại Hy Lạp, nơi các giới chức “hết lần này đến lần khác từ chối cung cấp bằng chứng hoặc sự thật về vụ án”, ngăn chặn nỗ lực tường thuật của cô. (Phiên phúc thẩm của các bị cáo, ban đầu được lên lịch vào năm ngoái, nay được cho là ​​​​sẽ diễn ra vào tháng Ba.) Cô kết luận rằng sáu bị cáo “không phóng hỏa – tuyệt đối không có bằng chứng”.

Vụ hỏa hoạn ở trại Moria hóa ra chỉ là một phần của câu chuyện cô muốn kể. Markham là tác giả của “The Far Away Brothers” (“Anh em từ viễn xứ” – xuất bản năm 2017), câu chuyện tuyệt hay được kể một cách hùng hồn về cặp anh em song sinh người Salvador đã đến Mỹ khi còn niên thiếu, chạy trốn bạo lực ở quê hương. “A Map of Future Ruins” tham vọng hơn và cũng lan man hơn, đan xen các bối cảnh từ Hy Lạp đương đại với câu chuyện lịch sử về cuộc di cư của chính gia đình Markham từ Hy Lạp một thế kỷ trước, cùng chuyến vòng vèo đến một khách sạn băng ở vùng biên giới giữa Nga và Na Uy và một chương ngắn viết về những gì con người có thể học được từ cây cối.

“Rốt cuộc câu chuyện về trại tị nạn Moria không chỉ kết nối với mà còn là trung tâm giữa cuộc điều tra sâu rộng hơn của tôi về cơ chế thuộc về, loại trừ và da trắng trong một thế giới dầy đặc những đường biên giới, là cuộc điều tra đã đưa tôi đến Hy Lạp ngay từ đầu – và là trung tâm cho cuốn sách mà cuối cùng tôi sẽ viết, chính là cuốn sách này mà bạn đang cầm trên tay, khác xa so với những gì thoạt đầu tôi tưởng tượng về nó,” Markham giải thích ngay đầu cuốn sách. Đây là câu văn phức rối, truyền tải những hiểm họa của cách tiếp cận mở rộng đến thế. Khi cô miêu tả những gì mình chứng kiến, những quan sát của cô rất sinh động; khi cô bắt đầu suy tưởng, câu văn trở nên lê thê. Trong khi cuốn sách trước của cô đầy sức sống bởi một nét đặc trưng kiên định, thì “A Map of Future Ruins” đôi khi lại vòng vèo quá xa đến nỗi mất phương hướng.



Hy Lạp là chủ đề phong phú không cần phải bàn cãi, với tư cách một địa điểm cũng như tư cách một phép ẩn dụ. Là “nơi khai sinh ra nền dân chủ” được ngợi ca, xứ sở này, với quá khứ thần thoại của mình, đã trở thành chất liệu cho sự hoài cổ, hình tượng của nó trở thành chất liệu cho sự kính ngưỡng. Bọn Đức Quốc xã và những kẻ ủng hộ thuyết người da trắng thượng đẳng đã đưa ra những phiên bản bị bóp méo của Hy Lạp cổ đại để khẳng định tính ưu việt của phương Tây. Thế nhưng như Markham ám chỉ, những rắc rối hiện tại của xứ sở này khiến toàn bộ sự thần thoại hóa dường như càng vô vọng và kỳ quái hơn.

Cô viết: “Hy Lạp, với nạn tham nhũng không gì kiềm chế được, nghèo đói lan rộng và ngày càng ngả sang khuynh hướng chuyên quyền, giờ đây đã coi thường câu chuyện về nguồn gốc của chính nó”. Markham thấu hiểu những sự đảo ngược, những nghịch lý và những khác biệt về ý nghĩa. Thế giới càng trở nên toàn cầu hóa thì “rất nhiều người trong chúng ta càng nhiệt tình khao khát một hệ thống gốc rễ ràng buộc chúng ta”. Tuy vậy, rất nhiều thứ cô tình cờ bắt gặp là “phi lý”: những con hồng hạc (“những thứ ngớ ngẩn màu hồng rực rỡ trên hòn đảo khô cằn này của Hy Lạp”); đề xuất xây bức tường nổi trên mặt biển Aegea (“thứ gì đó từ một cuốn tiểu thuyết phi lý”); phản ứng của chính cô khi ai đó nói rằng trông cô như người Hy Lạp (“câu nói đó, thật phi lý, khiến tôi hởi dạ”).

Và rồi đến mối quan hệ dường như đầy cảm xúc của cô với chính cuốn sách của mình. “Tôi biết sẽ là phi lý và vô nhân đạo nếu cố đem so sánh câu chuyện của chính gia đình tôi với câu chuyện của những người tị nạn ngày nay,” cô viết, và cô (sáng suốt) không cố làm bất kỳ điều gì như vậy. Thế nhưng cuốn sách của cô lại bao gồm những tình tiết từ câu chuyện của gia đình cô và nó cũng bao gồm những tiết đoạn về những người tị nạn ngày nay. Cô bày tỏ rằng cô khước từ việc vạch ra các mối liên kết như một vấn đề nguyên tắc, đồng thời tuyên bố tại một số điểm rằng cô ngày càng thất vọng với ngành báo chí, “một ngành moi móc”, và cái “logic trình tự” chi phối cách kể chuyện tuyến tính.

Thế nên cô đưa ra một loạt các cảnh có chủ đề theo quy ước nhằm tạo ấn tượng, một số trong số đó là những đoản văn từ những chuyến đi của cô ở Hy Lạp – nơi chốn cô khao khát được biết rõ và thấy một phần của mình trong đó, trong khi nó dường như khiến cô bối rối ở mỗi lối rẽ. Cô thấy một người phụ nữ đang nói chuyện với một con vịt và gặp một người đàn ông nói rằng anh ta biết cách “nói tiếng chim”. Chồng cô bị một con lừa cắn, và ngay sau đó họ phát hiện ra một vài con rắn đang quằn quại trên mặt đất. “Con lừa bị phù phép này, những con rắn xoay tròn này, giống như những bức thư cần giải mã,” cô viết, “nhưng tôi lại ở đây lần nữa, cố nắm bắt ý nghĩa.”

Bị lạc lối là một chủ đề. Sự hoài cổ được thúc đẩy bởi những kiểu lạc lõng khác cũng vậy. Markham thường hay trích dẫn Svetlana Boym, nghệ sĩ và học giả: cuốn “The Future of Nostalgia” (“Tương lai của sự hoài cổ” – xuất bản năm 2001) của chị rõ ràng là nguồn cảm hứng cho cô. Tuy nhiên, ở nơi mà những suy ngẫm của Boym được củng cố bằng lập luận tài tình và độc đáo của chị về những cách mong nhớ khác nhau về một quá khứ có thể chưa từng tồn tại, Markham lại lạc lối trong sự lạc lõng của mình. “A Map of Future Ruins” là bức tranh cắt dán mà các mảnh ghép chẳng bao giờ hoàn toàn ăn khớp với nhau. Ngay cả vụ hỏa hoạn ở trại tị nạn Moria, mà cô gọi là “trung tâm” cho cuộc điều tra của mình, cũng không cung cấp được là mấy về mặt chỉ dẫn.

“Bất kỳ ai phóng hỏa – nếu quả thực đó là vụ phóng hỏa có chủ ý – hẳn là đã cố gắng phá hoại một trật tự nào đó của vạn vật đã được nhận biết, nghĩa là, để viết lại câu chuyện.” Lời khẳng định đó đáng tin cậy. Nhưng đây là cảm nghĩ chung chung đầy dè dặt đến nỗi nó khiến bạn giống như Markham trong những chuyến du hành của cô: nắm bắt ý nghĩa mà chẳng biết đi đâu.

A MAP OF FUTURE RUINS: On Borders and Belonging | By Lauren Markham | Riverhead | 259 pp. | $28

Jennifer Szalai is the nonfiction book critic for The Times.

https://www.nytimes.com/2024/02/14/books/review/lauren-markham-a-map-of-future-ruins.html

Friday, November 1, 2024

Các vị sếp cảnh sát này đang hành động để thay đổi nhận thức

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Trong “Walk the Walk” (“Nói là làm”), Neil Gross miêu tả ba sở cảnh sát nước nhà đang thử nghiệm một cuộc cải cách thực thụ.

Khi nói đến hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát, đất nước này không dành cho những người lạc quan: Dường như rất ít người Mỹ tin vào hứa hẹn cải cách.

Ở phía cánh tả, những cảnh sát theo chủ nghĩa bãi nô nhấn mạnh rằng hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát ở Mỹ gắn kết hết sức chặt chẽ với nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực đến nỗi những nỗ lực cải cách nhìn vào mặt tích cực nhất là không thích đáng và nhìn vào mặt tiêu cực nhất là bất chính, vì nó được sử dụng để biện minh cho một thể chế hung tàn bạo ngược. Ở phía cánh hữu, những người tự thể hiện mình là người ủng hộ “bộ cảnh phục xanh lam” khẳng định những cải cách mang tính chất “cảnh giác trước thành kiến chủng tộc và phân biệt chủng tộc” dẫn đến tình trạng các sở cảnh sát không được cung cấp tài chính đầy đủ và bị sa ngã, buộc phải bất lực ngồi nhìn ​​tội phạm bạo lực gia tăng.

Thế còn phía trung dung thì sao? Mặc dù các cuộc thăm dò cho thấy đa số người Mỹ ủng hộ cải cách cảnh sát, nhưng chưa đến 1/3 cho biết họ lạc quan là sẽ có tiến bộ. Tại Quốc hội, những nỗ lực lớn về cải cách của ngành cảnh sát đã dậm chân tại chỗ, và tình trạng này dường như khó có khả năng thay đổi.

Giữa mọi hoài nghi này xuất hiện cuốn sách mới của Neil Gross, giáo sư xã hội học của Đại học Colby. Trong cuốn “Walk the Walk: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture” (“Nói là làm: Ba vị sếp cảnh sát đã vượt qua nghịch cảnh và thay đổi văn hóa cảnh sát ra sao”), Gross trình bày một luận cứ sáng suốt và nhiệt thành ủng hộ giá trị của những thay đổi nho nhỏ về văn hóa, lần lượt từng sở cảnh sát một.

Gross cảm thấy ngã lòng trước bầu không khí bi quan đang lan rộng trong các nhà hoạch định chính sách. Cứ như thể, ông viết, họ “không thể tưởng tượng được hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát một cách đạo đức, hiệu quả và dân chủ sẽ có tác dụng thế nào”. Song nếu những cuộc cải cách đã không mang lại kết quả trong quá khứ, theo lập luận của ông, chẳng phải là vì chúng không thể mang lại kết quả, mà là bởi những nhà cải cách chưa quan tâm đủ mức đến sự cần thiết phải làm thay đổi triệt để văn hóa cảnh sát, vốn “khét tiếng là khép kín” và “nghi ngờ người ngoài”. Việc bắt buộc tiến hành cải cách ở các sở cảnh sát đầy rẫy những sĩ quan chai sạn, luôn hoài nghi cũng giống như gieo hạt giống cỏ lên tấm kim loại: Nếu cỏ không mọc, ta không thể đổ lỗi tại hạt giống.

Nhưng mặc dù văn hóa hành pháp thiển cận có thể khiến các sở cảnh sát cực lực phản đối cải cách, Gross – người từng là sĩ quan cảnh sát một thời gian ngắn hồi đầu những năm 1990 ở Berkeley, California – khăng khăng rằng việc thay đổi triệt để hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát vừa là cần thiết vừa có thể thực hiện được. Chính hàng ngũ lãnh đạo, theo lập luận của ông, là những người có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi: Văn hóa hành pháp có thể thay đổi khi các sở cảnh sát có những vị lãnh đạo sáng tạo có “đầu óc tổ chức, kỹ năng giao tiếp với các cảnh sát và người dân, nhận thức lịch sử, tính khiêm tốn và sự kiên trì”.

Các vị sếp giỏi biết khi nào nên thúc giục, và khi nào nên tạo áp lực một cách nhẹ nhàng. Họ cho làm quen với những cải cách tăng dần, thay vì bắt buộc phải thay đổi trước khi các sĩ quan sẵn sàng thay đổi – và khi các sở cảnh sát trở nên cởi mở hơn với việc thay đổi, những cải cách tăng dần đó có thể bắt đầu gia tăng. Khi chúng ta có thêm nhiều sự hợp tác chặt chẽ của cảnh sát với cộng đồng, thêm nhiều sự sẵn lòng giảm bớt việc dừng phương tiện giao thông đối với những vi phạm nhỏ, thêm nhiều lựa chọn thay thế cho việc giam giữ và thêm nhiều nỗ lực hơn để tuyển dụng lực lượng cảnh sát đa dạng, mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn đối với các cộng đồng này. Sẽ có ít vụ lạm quyền của cảnh sát hơn, ít vụ bắt giữ hơn – và ít tội phạm hơn.

Gross dàn ý cuốn sách của mình xoay quanh ba nghiên cứu điển hình: Stockton, tiểu bang California; Longmont, tiểu bang Colorado; và LaGrange, tiểu bang Georgia. Ở một số phương diện, ba thành phố đó khó mà khác nhau hơn được nữa, song theo lời Gross, mỗi thành phố đều được hưởng lợi vì có vị sếp cảnh sát tận tâm, giàu sáng tạo mà mọi sở cảnh sát đều cần có.

Tại Stockton, vị sếp sở cảnh sát là Eric Jones ủng hộ khái niệm “công lý tố tụng”, phương thức hoạt động nghiệp vụ của cảnh sát nhấn mạnh vào tính minh bạch, công bằng, vô tư và sẵn sàng cho phép công dân lên tiếng. Ông hỗ trợ các sĩ quan khi họ phát triển chương trình đào tạo mới về công lý tố tụng; ông thành lập ban cố vấn cộng đồng và tổ chức các hội thảo xây dựng lòng tin với những người chỉ trích cảnh sát. Nhưng ông cũng chiếm được lòng tin từ các sĩ quan của mình bằng cách lắng nghe những mối quan tâm của họ. Ông kiếm được khoản tài trợ cho các thiết bị mới đắt tiền và quan tâm đến việc tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với công đoàn của cảnh sát.

Ở LaGrange, vị sếp sở cảnh sát là Lou Dekmar cũng đầu tư như vậy vào thiết bị mới và tăng lương cho các sĩ quan, song ông cũng đưa ra các chính sách bắt buộc phải giảm bạo lực và xung đột và cải thiện việc đào tạo sĩ quan. Trong thời gian làm sếp sở cảnh sát, ông tăng đáng kể tỷ lệ giải quyết các vụ án mạng của Sở Cảnh sát và giảm việc sử dụng vũ lực của cảnh sát. Năm 2017, Dekmar thành tin nóng trên báo đài toàn quốc khi công khai xin lỗi về sự đồng lõa của sở cảnh sát trong vụ hành hình kiểu lynch một thanh niên da đen hồi năm 1940.

Ở Longmont, vị sếp sở cảnh sát là Mike Butler ủng hộ “công lý phục hồi”, phương pháp tiếp cận tội phạm – khi có sự đồng ý của nạn nhân – cho phép thủ phạm thừa nhận tổn thương mà chúng gây ra, xin lỗi và bồi thường thay vì phải đối mặt với việc bị truy tố và bỏ tù. Ông cũng áp dụng phương pháp giảm thiểu tác hại đối với việc sử dụng ma túy. Thay vì cố gắng “ngăn chặn việc sử dụng ma túy bằng cách truy tố hình sự các nhà sản xuất, người buôn bán và người sử dụng”, Butler tập trung vào việc liên kết cảnh sát với các dịch vụ xã hội “để điều trị chứng nghiện và cải thiện các nguyên nhân cốt lõi của nó”. Phương pháp này thừa nhận rằng mặc dù việc loại bỏ hoàn toàn tội phạm liên quan đến ma túy là phi thực tế, nhưng việc đảm bảo rằng người sử dụng ma túy gây “tổn hại ở mức ít nhất cho bản thân họ và cho cộng đồng” nằm trong khả năng của chúng ta.

Với tư cách một câu chuyện, “Walk the Walk” không thành công trọn vẹn. Gross nhảy từ chuyện này sang chuyện khác, ông thường giới thiệu những nhân vật và giai thoại mới không hoàn toàn gắn kết với lập luận trọng tâm của cuốn sách. Tác giả cố gắng miêu tả các sĩ quan cảnh sát là những người nhân đạo bằng cách tập trung vào Jones, Dekmar và Butler, nhưng các nhân vật chính của ông vẫn tẻ nhạt – những nhân vật thể hiện đức hạnh trong một vở kịch đạo đức, thay vì những con người phức tạp.

Độc giả mà Gross nhằm đến cũng có phần không rõ ràng. Mặc dù ông đưa chuyên môn của một học giả vào chủ đề của mình, song thỉnh thoảng ông cố gắng đạt được sự dễ hiểu thì lại làm hỏng sắc thái, và văn phong của ông ngoặt sang lối đơn giản thái quá. Có lúc ông lao vào sự khuôn sáo: “Đất nước này như một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung”.

Nghiêm trọng hơn, Gross không giải quyết được đầy đủ luận đề con-gà-và-quả-trứng, luận đề khiến cho sự thay đổi triệt để của cảnh sát trở nên rất khó nắm bắt: Những thay đổi về chính sách sẽ không hiệu quả trừ phi văn hóa cảnh sát thay đổi, nhưng không rõ văn hóa cảnh sát có thay đổi được hay không nếu không thay đổi chính sách. “Walk the Walk” dựa dẫm hơi nhiều quá vào vị Sếp Cảnh sát tốt bụng như một vị cứu tinh bất ngờ xuất hiện. Nhưng những nhà lãnh đạo mang đến sự thay đổi triệt để này ở đâu ra? Liệu đội ngũ lãnh đạo như vậy có thể được bồi dưỡng, hay đó chỉ là tình huống hoàn toàn ngẫu nhiên? Liệu những cải cách từ trên xuống có mang lại kết quả nếu không có thay đổi từ dưới lên? Không phải lúc nào Gross cũng đặt câu hỏi – hoặc có sẵn câu trả lời.

Dù sao mặc lòng, “Walk the Walk” vẫn là cuốn sách sâu sắc và quan trọng. Vào thời điểm đất nước này quả thực là một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung, sự lạc quan của Gross về cải cách cảnh sát mang lại liều thuốc giải độc cho sự hoài nghi và u ám thâm nhập hầu khắp các cuộc thảo luận như vậy. Cuốn sách của ông đầy sự đồng cảm và tính thực dụng. “Chúng ta không thể xóa sổ lực lượng cảnh sát, không phải trong tương lai gần,” ông cảnh báo – nhưng mặc dù những viễn cảnh không tưởng về một thế giới không có hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát có thể rất xa tầm với, cũng chẳng có lý do gì để từ bỏ những cải cách nhỏ hơn.

Gross chưa từng tuyên bố thẳng thừng điều đó, nhưng cách ông tiếp cận hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát – chẳng khác gì phương pháp tiếp cận việc sử dụng ma túy của vị sếp sở cảnh sát Butler kia – tập trung vào việc giảm thiểu tác hại. Gross thừa nhận rằng việc tạo ra một văn hóa cảnh sát tốt đẹp hơn không phải là “cái thay thế cho sự thay đổi về cơ cấu trong hệ thống tư pháp hoặc trong xã hội Mỹ nói chung”, và những cuộc cải cách sẽ không hủy bỏ được di sản độc hại của nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực. Tuy nhiên, một số sở cảnh sát tốt hơn những sở khác, và mọi sở cảnh sát đều có thể tốt hơn lên.

Nếu chúng ta có thể “thúc giục các cơ quan ở địa phương chúng ta thay đổi suy nghĩ về văn hóa và hoạt động của họ” và hỗ trợ các lãnh đạo cảnh sát sáng suốt như Jones, Dekmar và Butler, các cộng đồng của chúng ta có thể trở thành những nơi an toàn hơn, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Đơn giản thái quá ư? Chắc thế. Nhưng nó còn tốt hơn rất nhiều so với không có gì.

WALK THE WALK: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture | By Neil Gross | 259 pp. | Metropolitan Books | $27.99

Rosa Brooks is a professor at Georgetown University Law Center and the author of “Tangled Up in Blue: Policing the American City.”

https://www.nytimes.com/2023/03/21/books/review/walk-the-walk-neil-gross.html

Giả mạo, lừa đảo và bí ẩn vĩnh viễn của rượu absinthe

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Những nghệ sĩ ở thế kỷ 19 như Viktor Oliva biến “nàng tiên xanh” thành bất tử, vừa như nàng thơ vừa như cô nhân tình hay ghen, gây nghiện.


Cuốn “The Absinthe Forger” (“Kẻ làm giả rượu Absinthe”) của Evan Rail dẫn người đọc vào chuyến đi kiểu du thủ du thực xuyên qua thế giới của những nhà sưu tập rượu cổ điển để truy đuổi một kẻ lừa đảo.

“Nếu bạn nếm thử loại rượu absinthe mà người ta cho là đã được cất cách đây một thế kỷ hoặc hơn, bạn thậm chí có biết mình phải trông đợi điều gì không?” Evan Rail hỏi. Đây là câu hỏi then chốt khiến anh viết cuốn sách mới “The Absinthe Forger: A True Story of Deception, Betrayal, and the World’s Most Dangerous Spirit” (“Kẻ làm giả rượu absinthe: Câu chuyện có thật về sự lừa dối, phản bội và loại rượu nguy hiểm nhất thế giới”), cuốn sách mà, cùng với câu chuyện trinh thám đầy hứa hẹn, dẫn đến cuộc hội thảo độc lập sôi nổi về sự cám dỗ – cũng như văn hóa và lịch sử của loại rượu rất hiểm độc này và tai tiếng gây ra sự điên loạn và giết người của nó.

Được đặt cho biệt danh là Nàng tiên xanh vì màu sắc thường thấy nhất của nó, rượu absinthe đã truyền cảm hứng cho Oscar Wilde, Vincent van Gogh, Henri de Toulouse-Lautrec, Ernest Hemingway và nhiều tác gia, nghệ sĩ khác, những người tìm thấy ở nó một nàng thơ bằng chất lỏng – chưa kể đến một đám đông công chúng chỉ thích uống. Cách truyền thống của Pháp để thưởng thức món đồ uống pha chế đặc biệt (thêm hương vị hồi, thì là và loại ngải tây Artemisia absinthium) thường bao gồm nghi thức liên quan đến đồ dùng chuyên dụng lấy cảm hứng từ phong cách Art Nouveau [Tân Nghệ thuật]: Người uống rượu khui hương vị của rượu absinthe bằng nước đá chảy nhỏ giọt tưới lên một viên đường, đặt trên một chiếc thìa có khe thủng trên mặt ly rượu.

Bị cấm ở Pháp sau năm 1915, rượu absinthe bấy lâu đã trở thành nguồn gốc của huyền thoại và nỗi ám ảnh.


Rượu absinthe đã bị pháp luật cấm tại Mỹ và một số vùng của châu Âu hầu như suốt thế kỷ 20, do tin bài trên phương tiện truyền thông nói về những hậu quả ghê gớm và thứ khoa học vô căn cứ liên quan đến thujone, loại độc tố thần kinh hóa học được tìm thấy trong cây ngải tây. Áp lực từ các nhà sản xuất rượu vang đối thủ (muốn có đông người uống hơn) và các nhà hoạt động vì cữ rượu (muốn hoàn toàn không có người uống) đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa chống-absinthe.

Còn như cái tai tiếng rượu absinthe gây ra chứng loạn óc thì sao? Khoa học ngày nay chứng minh rằng có lẽ chẳng phải cây ngải tây khiến mọi người phê pha hoặc có hành vi sai quấy, mà chính là nồng độ cồn cực cao của thứ rượu này. Thế nhưng, nhiều biến thể hiện đại đang giảm bớt chất thujone.

Những người hâm mộ tận tụy với loại rượu màu ngọc lục bảo táo bạo này coi những chai rượu được sản xuất trước lệnh cấm năm 1915 của Pháp là đặc biệt đáng mơ. Chính những người chuộng rượu absinthe này và nền văn hóa nhánh gắn kết chặt chẽ của họ (bao gồm, như lẽ đương nhiên, các nhóm trên Facebook) – cũng như thông tin đầu vào từ các nhà chưng cất hiện đại – đã thúc đẩy câu chuyện khi Rail cố gắng liên lạc với kẻ làm giả nhãn hiệu này, một chuyên gia bị cáo buộc đã làm giả những thứ pha trộn hiện đại thành rượu mạnh cổ điển.

Vậy thì những người ở hạng thấp trong số những người biết thưởng thức rượu absinthe có thể tìm thấy những gì trong cuốn sách này – chẳng hạn như những người từng nếm thử sau khi xem bộ phim "Moulin Rouge!" (trong phim này Kylie Minogue đóng vai Nàng Tiên Xanh) và cho rằng rượu absinthe có mùi vị giống nước súc miệng hương cam thảo? May thay, "The Absinthe Forger" động chạm đến nhiều vấn đề chứ không chỉ hương vị mà người ta dần dần mới thích đối với một loại rượu mạnh được uống theo cách đầy nghi lễ.

“Tôi muốn biết thêm về tâm lý của nhà sưu tầm, điều gì khiến người ta mua những chai rượu cũ với giá hàng nghìn đô-la, và đồng thời tôi cũng cố gắng để hiểu vì sao Christian, cho dù anh ta là ai, lại làm những việc anh ta đã làm,” Rail viết. Những tội lỗi của Christian – kẻ làm giả trong tựa đề cuốn sách này sinh sống tại London – sớm được tiết lộ. Câu chuyện của Rail là câu chuyện lớn hơn – là câu chuyện về một người đam mê tận tụy với việc tìm hiểu lịch sử và bản chất của sự ám ảnh.

Là nhà báo sống và làm việc tại Prague và là cộng tác viên thường trực của tờ New York Times thường xuyên viết về ẩm thực và du lịch, hiển nhiên Rail có đủ kỹ năng cần thiết để kể câu chuyện này; thậm chí anh đã có lần viết một bài đặc biệt về rượu absinthe cho tờ The Times.

Trong quá trình lang thang nghiên cứu của mình, anh bắt gặp một người phụ nữ có dính líu đến “thế giới rượu absinthe ngầm” của những nhà sưu tập ở thị trường phi chính thức, bà này có câu trả lời đơn giản cho câu hỏi vì sao có người trả giá cao cho một chai rượu bụi bặm được cất giấu trong tường hoặc chôn trong hầm rượu cả một thế kỷ. “Mọi người mua những chai rượu có niên đại trước-lệnh-cấm là vì họ muốn uống chúng,” bà nói với Rail. “Họ muốn biến nó thành một phần cuộc sống của họ, một phần cơ thể của chính họ.”

Niềm ham muốn có tính thể xác đó để kết nối với quá khứ nghe có vẻ cực đoan, song nó cũng là một khúc bi ca cho sự quá vãng của một kỷ nguyên văn minh hơn, dẫu nó có bị lý tưởng hóa đến đâu chăng nữa. Như Rail nhận xét: "Tôi nhận ra rằng thế giới này đã đánh mất văn hóa uống rượu absinthe, đến mức hầu hết mọi người thậm chí không biết cách phục vụ nó và bản thân những người sành rựou cũng phải chật vật nắm bắt cách sử dụng dụng cụ."

“The Absinthe Forger” sử dụng tội lỗi của Christian như một phương tiện để khám phá thế giới rượu mạnh, nhưng cuốn sách cũng giống như một cuộc tìm kiếm xuyên thời gian, cuộc tìm kiếm với ý định đi sâu vào cách thức rất ám ảnh của nhà sưu tầm. Như một tín đồ rượu absinthe nhiệt thành đã chỉ trích một cách đầy mỉa mai: “Về mặt nào đó, rượu absinthe quả thực đã dẫn đến sự điên loạn.”

THE ABSINTHE FORGER: A True Story of Deception, Betrayal, and the World’s Most Dangerous Spirit | By Evan Rail | Melville House | 368 pp. | $32

J.D. Biersdorfer has been writing about consumer technology for The Times since 1998. She also creates the weekly interactive literary quiz for the Book Review and occasionally contributes reviews.

Forgery, Fraud and Absinthe’s Enduring Mystique

https://www.nytimes.com/2024/10/18/books/review/the-absinthe-forger-evan-rail.html

Thursday, October 31, 2024

Đối mặt với “những kẻ quái vật” của nền văn hóa

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Cuốn sách tỉ mỉ và thâm thúy của Claire Dederer phát lộ “tình thế tiến thoái lưỡng nan của người hâm mộ” đối với những nhân vật như Vladimir Nabokov, Woody Allen, Willa Cather và Roman Polanski.

Những bậc thềm của những ngôi nhà bằng sa thạch ở khu Brooklyn, trên đó cư dân thường để những món quà tặng miễn phí cho người qua đường, là một thước đo xác thực cho sự yêu thích văn chương hiện thời – và cả sự chán ghét nữa. Vào mùa hè cuồng nhiệt năm 2018 đó, khi khắp nơi nơi người ta công khai cáo buộc những người đàn ông lỗi lạc là có hành vi bỉ ổi, tôi thấy trên những bậc thềm đó được đặt kề bên nhau là cuốn “Side Effects” (“Hiệu ứng phụ”) của Woody Allen và “Lake Wobegon Days” (“Những tháng ngày ở Lake Wobegon”) của Garrison Keillor, khiến người ta bật cười theo cách mà những nhà văn hài hước đó không bao giờ chủ định. Ngay gần đó, ai đó đã giận dữ vứt bỏ cuốn sách dạy nấu ăn “Molto Italiano” của Mario Batali. Kệ sách vụ-bê-bối của tôi đang bị nhồi chặt hơn một trong những con sò origano nướng ngon lành của ông này.

Bên phía Bờ Tây, ở Seattle, tác giả Claire Dederer phát hiện ra hiện tượng tương tự: một Thư viện Nhỏ Miễn phí “ních chặt đến tận nóc những cuốn sách của và về” Allen, mà bà quyết định thu thập làm nghiên cứu. “Một cuốn sách của Woody Allen kiếm chác được là cuốn sách mà tôi không trả tiền để mua – cách hoàn hảo để hủy hoại tài nghệ của một người mà ta nghi ngờ về đạo đức,” bà viết trong cuốn sách mới của bà là “Monsters: A Fan's Dilemma” (“Những kẻ quái vật: Tình thế tiến thoái lưỡng nan của người hâm mộ”), một sự xem xét liên-ngành về những nhân vật phân cực như vậy, và về đạo đức của một cuộc đời sáng tạo.

“Tất cả những người còn đang sống,” Dederer viết, “đều bị xóa sổ hoặc sắp bị xóa sổ.” Nhưng bà rất không thích dùng thuật ngữ “xóa sổ văn hóa”, nó thiên vị, như thực tế là thế, cái người bị ô danh bởi dấu ấn chính thức của sự buộc tội, thay vì người lên tiếng về những hành vi sai trái. Và dẫu rằng như vậy bà vẫn muốn tìm cách dung hòa lòng ngưỡng mộ thứ nghệ thuật tuyệt vời đó của bà với những hành vi sai trái trong đời thực của những người sáng tạo ra nó.

Mở rộng bài tiểu luận nổi tiếng đăng trên tạp chí The Paris Review một tháng sau khi sự bạo lực tình dục của Harvey Weinstein bị phơi bày, “Monsters” duy trì giọng văn tiểu luận, đôi khi mang tính cách ngôn trong suốt 250 trang có lẻ. Điểm xuyết những chi tiết về cảnh vật cụ thể của bà – chiếc phà, tiệm bánh crepe, buổi biểu diễn nhạc rock khiến những hàng mi lấp lánh – “Monsters” một phần là hồi ký, một phần là chuyên luận và toàn bộ là sự thú vị. Dederer liên tục cố thử – không phải theo nghĩa tính từ của từ này, mà theo nghĩa phân từ hiện tại của nó: cho chúng ta thấy quá trình tư duy của bà, đồng thời hiệu chỉnh trong khi bà tiến hành và thử nghiệm các hình thức khác nhau.

Ví dụ, bà miêu tả cuộc tranh luận với một “nam văn sĩ” hàn lâm mà bà không nêu tên về bộ phim “Manhattan” năm 1979 của Allen, như một “vở kịch nhỏ” lấy bối cảnh trong nhà hàng lát đá cẩm thạch ở viện bảo tàng Met Breuer (bản thân nó là một bối cảnh “Manhattan” thực thụ), quan sát “tiếng lanh canh của đồ ăn bằng bạc xung quanh căn phòng, như thể những con dao và những chiếc dĩa đang có cuộc trò chuyện khác, cuộc trò chuyện rõ ràng hơn và lành mạnh hơn, ở bên dưới hoặc bên trên tiếng ồn ào xôi thịt của con người.”

Dederer, “nữ văn sĩ” – và là nữ văn sĩ tinh nhanh, hóm hỉnh – tin rằng sự lãnh đạm vô tình khi nhân vật của Allen hẹn hò với một học sinh trung học làm hỏng bộ phim, điều luôn khiến bà ít nhiều khó chịu, đặc biệt là kể từ khi nhà đạo diễn này bỏ nữ minh tinh Mia Farrow để lấy cô con gái Soon-Yi Previn của chị. Nam văn sĩ kia giữ quan điểm của trường phái Phê bình Mới (New Criticism) cho rằng bà nên đánh giá “Manhattan” chỉ về mặt thẩm mỹ học thôi, và đó là một kiệt tác.


Woody Allen đã chiếm quá nhiều chỗ trong sự đánh giá này. Kẻ được gọi là quái vật – một từ mà, rất tiện lợi, có thể biểu thị sự thành công, tầm cỡ cũng như sự biến thái – có cách để làm điều đó.

Dederer lướt qua cả một dàn những kẻ không đáng tin cậy, gồm vô số đàn ông nhưng cũng có một số lượng đáng kinh ngạc là phụ nữ: J.K. Rowling, dĩ nhiên, bộ truyện Harry Potter của bà này đã khiến cả gia đình Dederer thích mê trước khi bà phát biểu về vấn đề chuyển giới; nhưng còn có Virginia Woolf, nhật ký của bà này “lỗ chỗ” những “lời nhận xét khiếm nhã bài Do Thái” mặc dù bà kết hôn với một người Do Thái; có Willa Cather, người biến những người Da đen thành những kẻ không có tính người trong cuốn tiểu thuyết “My Ántonia”; có Laura Ingalls Wilder, người biến người Mỹ bản địa thành những kẻ không có tính người trong bộ truyện “Little House” (“Ngôi nhà nhỏ”); và Doris Lessing, người bỏ lại hai đứa con khi chuyển từ Rhodesia đến London sống cùng đứa con thứ ba.

“Đây là điều mà tính quái vật của phụ nữ có vẻ rất giống: bỏ rơi con cái. Bao giờ cũng vậy,” là lời tuyên bố của Dederer, bà mẹ hai con vẫn cảm thấy có lỗi về việc uống rượu cả một thập kỷ và một cuộc ẩn dật suốt năm tuần lễ ở Marfa, bang Texas. Ở điểm này tôi muốn tranh luận với bà (và tôi không nghĩ bà sẽ phiền lòng: bà vẫn đang liên tục tranh luận với chính mình). Trừ phi việc không có con, như Virginia Woolf, là một kiểu bỏ rơi?

“Quái vật” té ra chỉ là một trong số nhiều từ mà tác giả thăm khám một cách kỹ lưỡng, phát hiện ra nó là “nam giới, tinh hoàn, thế giới cũ. Đó là một từ có lông lá, và có răng”. Nó gợi lên nỗi sợ hãi và hình ảnh tưởng tượng thời thơ ấu, giống như những sinh vật trong cuốn truyện tranh “Where the Wild Things Are” (“Nơi có những loài vật hoang dã”), tác giả của nó là Maurice Sendak bị một số người coi là quỷ quái một cách lố bịch, hoặc các tác phẩm của Roald Dahl: ít bị coi là quỷ quái một cách lố bịch hơn, vì chủ nghĩa bài Do Thái không đến nỗi khiếm nhã. (“Nếu chúng ta từ bỏ những người bài Do Thái,” một trong những người bạn của Dederer nhận xét bằng câu thực chất giống như câu khôi hài kiểu Woody Allen, “chúng ta sẽ phải từ bỏ tất thảy mọi người”.)

“Tôi có phải là một kẻ Quái vật không?” là tiêu đề Dederer đặt cho một chương sách, để đánh giá thái độ đúng đắn một cách tương đối của bà. Nhưng liền sau đó, bà đánh giá sự nghiệp của chính mình – bà đã xuất bản những cuốn sách về yoga và tình dục được đón nhận nồng nhiệt – "có lẽ tôi không đủ tính quái vật." Nghệ thuật đòi hỏi sự ích kỷ; những thiên tài được “cho phép vi phạm quy tắc ứng xử” khi phải tuân theo những kỳ vọng của xã hội. Giá như con người ta có thể giữ được phần nóng nảy, háu đói của trạng thái quái vật mà không để lại dấu răng trên người khác.

“Vết nhơ” là một từ khác thuộc ngữ vựng mà Dederer thấy là hữu ích, mặc dù cuốn “The Human Stain” (“Vết nhơ của nhân loại”) của Philip Roth không nằm trong số rất nhiều tác phẩm được phân tích ở đây, và Roth chỉ được đề cập thoáng qua, bất chấp vụ việc rất thú vị về những cáo buộc hành vi tình dục sai trái chống lại người viết tiểu sử của Roth đã gây nguy hại cho di sản của ông.

Có lẽ là do “tiểu sử”, đối với Dederer, dường như không phải là một thể loại ưu tú mà đúng hơn là mối phiền toái hiện diện khắp nơi, “thứ phá hoại niềm vui của chính tôi”: chỉ là tập hợp các chi tiết về cá nhân mà ta có thể tìm kiếm trên thực thể quái vật hiện đại nhất kia, internet. “Chúng ta ngập trong tiểu sử; chúng ta phát ốm vì tiểu sử,” bà viết. Nó “từng là thứ bạn tìm kiếm, khát khao và hăng hái đeo đuổi. Giờ đây nó đổ xuống đầu bạn suốt ngày”.

Hậu quả tất yếu đối với “kẻ quái vật”, ở thể thụ động hơn, là “vết nhơ”: một tính xấu nào đó tô điểm cho cuộc đời của ai đó mà ta không muốn biết, tuy nhiên nó vẫn lan truyền và có thể làm xấu đi nhận thức về tác phẩm của người đó. Vết nhơ thẩm thấu qua thời gian, đến những người đã làm tổn thương nghệ sĩ đó và những người mà nghệ sĩ đó đã làm tổn thương, và trong thời buổi này khi các mối quan hệ xã hội ảo được đề cao, những người mà anh ta hoặc chị ta làm tổn thương bao gồm cả chúng ta: những người hâm mộ biết quá nhiều.

Kệ sách vụ-bê-bối của mỗi người hâm mộ, những cuốn sách được len lén cầm đi từ bậc thềm, không có vẻ giống nhau. Kệ sách của Dederer: nhẹ về sách của Roth, nặng về sách của Vladimir Nabokov. Lời biện minh sắc sảo một cách tinh tế của bà về tác phẩm “Lolita” đã khiến tôi nhỏ lệ biết ơn.

Song tôi cũng thấy mình không đồng tình với hoặc rất hồ nghi, đồng thời phản kháng cái “chúng ta” chung chung của bà (một đại từ mà chính bà cũng tự vấn). Tôi không nghĩ đến bài phát biểu phân biệt chủng tộc năm 2006 của diễn viên hài Michael Richards mỗi khi tôi thoáng thấy anh ta lao qua cửa trong bộ phim dài tập “Seinfeld”. (Tôi có nên nghĩ đến không?) Ắt hẳn cũng không với diễn viên hài trẻ vui nhộn Troy Bond, người thường xuyên thực hiện một chương trình nhại kiểu hiện đại trên TikTok.

Tôi không còn nghĩ từ “tham vọng” gắn với phụ nữ là miệt thị nữa. Tôi không nghĩ những phụ nữ hoàn thành công việc của mình – Dederer gọi họ là “những người về đích” – lại là quái vật hoặc có thể so sánh với những gã đàn ông quái vật theo bất kỳ cách nào. Họ là học sinh hạng A! Hoặc chỉ đơn giản là chuyên nghiệp.

Và tôi chắc chắn không nghĩ, như bà khẳng định, rằng “có thai là hết chuyện”. Câu này từ một người dành nhiều trang sách chìm đắm một cách tội lỗi vào cuốn “Rosemary's Baby” (“Hài nhi của Rosemary”), cố gắng giải quyết “vấn đề của Roman Polanski”. Thế còn “Couples” (“Những cặp vợ chồng”) của John Updike thì sao? (Đừng bắt tôi phải mở đầu bằng bài Tạp chí London Review of Books đã quái vật hóa Updike ra sao, phía trên bài luận của Patricia Lockwood, như một “robot tình dục hỏng hóc”.)

Đối với một tác giả rùng mình một cách chân thực trước sự bị rẻ rúng của từ “bị ám ảnh” để sử dụng cụm từ “làm việc” – cụm từ “làm tình” mới? – và “chủ nghĩa tư bản mới đây” khiến tôi cảm thấy, theo cách diễn đạt của chính Dederer, “hơi buồn nôn”.

Nhưng, nhưng… đây là cuốn sách mạnh dạn từ vách đá nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn bên dưới và nhảy ngay xuống, làm bắn tóe ra xung quanh một cách vui thích, không sợ ướt. Thật hào hứng biết bao.

MONSTERS: A Fan’s Dilemma | By Claire Dederer | 288 pp. | Alfred A. Knopf | $28

Alexandra Jacobs is a book critic and the author of “Still Here: The Madcap, Nervy, Singular Life of Elaine Stritch.”

https://www.nytimes.com/2023/04/23/books/monsters-review-claire-dederer.html

Sam Shepard và nghệ thuật biểu đạt những điều không nói được thành lời

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“True West” là cuốn tiểu sử mới về một kịch tác gia kiêm diễn viên, bản thân ông là người kiệm lời nhưng tác phẩm của ông lại nói lên rất nhiều.

Nguyên tắc đầu tiên để làm bạn với Bob Dylan, như người ta đồn, là không được nói về Bob Dylan. Một thứ luật im lặng [omertà] tương tự dường như được áp dụng đối với Sam Shepard, kịch tác gia kiêm diễn viên, và nó đã được giữ nguyên kể từ khi ông qua đời năm 2017. Rất nhiều người đã xếp hàng để không nói chuyện với nhà văn mới nhất viết tiểu sử về ông, đa phần những người đó đã xếp hàng để không nói chuyện với những nhà văn trước đó viết tiểu sử về ông.

“True West: Sam Shepard's Life, Work, and Times” (“Miền Tây đích thực: Thân thế, sự nghiệp và thời đại của Sam Shepard”) của tác giả Robert Greenfield là cuốn tiểu sử thứ tư về Shepard, sau cuốn tiểu sử của Don Shewey xuất bản năm 1985, cuốn của Ellen Oumano xuất bản năm 1986 và cuốn của John J. Winters xuất bản năm 2017. Theo ghi chú về nguồn tin của Greenfield, tác giả đã thuyết phục được 38 người chịu cho ông phỏng vấn. Con số đó không có gì đáng hổ thẹn, nhưng đây không phải cái tài siêu thám tử của nhà văn viết tiểu sử lừng danh Robert Caro.

Theo quan niệm cũ, đánh giá một bữa tiệc không phải bởi những người hiện diện tại đó, mà bởi những người không hiện diện. Những người không hiện diện [ở cuộc phỏng vấn] gồm có người vợ đầu tiên của Shepard là O-Lan Jones, người bạn đời lâu năm của ông là Jessica Lange; những người tình của ông là Patti Smith, Brooke Adams và Joni Mitchell (bài hát “Coyote” của bà là về ông); và vô số bạn bè và những người cộng tác, trong đó có Terrence Malick, Keith Richards, Ed Harris, Peter Coyote, Wim Wenders, John Malkovich, T Bone Burnett, Diane Keaton, Ethan Hawke và cả Dylan, cùng với ông này Shepard đã viết những ca từ bất hủ trong bài hát “Brownsville Girl”: “Ngay cả những cuộc tụ họp mua bán trao đổi quanh đây cũng đang trở nên khá bất lương.”

Cuốn sách của Greenfield trung thực với cuộc đời của Shepard, mặc dù nó nhảy cách quãng như một viên đá lướt trên mặt nước. Shepard dành nhiều thời gian để hạ bức màn che và hướng tới câu chuyện thần thoại về chính bản thân ông. Ông trả lời rất nhiều cuộc phỏng vấn về việc không thích trả lời phỏng vấn. Cũng như Dylan, bản thân ông là người kiệm lời; trái lại, trong tác phẩm của mình, từ ngữ của ông tuôn tràn như xô nước đầy. Cũng như Dylan, ông đã ném ra hàng triệu ý tưởng và hình ảnh và để chúng lại cho những người khác cố gắng nhặt nhạnh.

Shepard đã nói dối về cuộc đời mình một cách bản năng, vì vậy có rất nhiều vấn đề cần tháo gỡ. Ông đẹp trai, thanh nhã, rắn chắc và chân tay dài rộng, đến mức người ta thấy choáng khi ở cạnh ông – ông khiến mọi người trở nên ngu ngốc, hoặc muốn khóc, hoặc tức giận hoặc khao khát được chạm vào, đôi khi là tất cả các cảm xúc này cùng một lúc. Hầu như đi đâu ông cũng chỉ đội những chiếc mũ John Deere, nhay nhay những chiếc tăm và thốt ra những lời bình phẩm kiểu một-gã-bình-dân: “Tôi học được từ trường đua nhiều hơn là từ Shakespeare” và “Tôi ở lại với ngành điện ảnh chỉ để nuôi những con ngựa của mình”. Bạn những muốn phần ảnh lồng vào cuốn sách (tại sao chỉ có một?) kéo dài khoảng vài chục trang.

“True West” là cuốn tiểu sử đầu tiên của Shepard kể từ khi ông qua đời ở tuổi 73, do biến chứng của bệnh xơ cứng teo cơ một bên, hay còn gọi là bệnh Lou Gehrig. Cơ thể của ông đã bị tấn công bất ngờ theo những cách khác nữa. Việc hút thuốc gây hậu quả nghiêm trọng cho ông. Ông phải đặt một stent để thông một động mạch bị tắc. Ông mang theo bên mình một máy thở ôxy.

Những năm gần đến 70 tuổi, ông đột ngột suy sụp. Năm 72 tuổi, ông bị bắt giữ lần hai vì lái xe trong tình trạng say xỉn. Về mặt vai diễn của ông, ông hiếm khi lựa chọn phù hợp, song gần cuối đời ông có cần phải xuất hiện trên bộ phim truyền hình dài tập “Klondike” của Discovery Channel không?


Greenfield là nhà văn viết tiểu sử lành nghề có nhiều tác phẩm, ông đã viết về cuộc đời của Jerry Garcia, Bill Graham, Timothy Leary và Burt Bacharach, cùng nhiều người khác. Cuốn tiểu sử Shepard của ông thiếu độ phức tạp nhất định, và thiếu nhận thức phê phán, nhưng nó có cấu trúc hợp lý và được viết rất mạch lạc. Nó bao quát mọi góc độ một cách khéo léo.

Tên khai sinh của Richard Hell là Richard Meyers, và tên khai sinh của Iggy Pop là Jim Osterberg. Thế còn Ramblin' Jack Elliott? Tên thật của ông là Elliot Adnopoz. Năm 1963, khi Sam Shepard đến Manhattan, ở tuổi 19, anh được gọi là Steve Rogers, mặc dù tên đầy đủ của anh là Samuel Shepard Rogers III.

Cha Shepard là phi công lái chiến đấu cơ B-24 Liberator trong Thế chiến II. Thói rượu chè và khí độ trượng phu, ngang tàng của người cha đã tái hiện ở các nhân vật trong một số vở kịch hay nhất của Shepard, gồm cả vở “Fool for Love” (“Khờ dại vì yêu” – 1983). Shepard lớn lên ở Nam California, Nam Pasadena và sau đó là ở Duarte, trong một nông trại trồng bơ, mặc dù cha mẹ anh đều dạy ở các trường trung học dành riêng cho giới nhà giàu. Chàng trai trẻ Shepard nghĩ mình có thể trở thành bác sĩ thú y. Chàng bắt đầu sáng tác những vở kịch khi còn học đại học cộng đồng, trước khi bỏ học.

Shepard quen biết con trai của Charles Mingus là Charles Mingus III ở trường trung học. Cậu Mingus con đã giúp Shepard kiếm được công việc dọn bàn ở Village Gate, hộp đêm ở Greenwich Village. Tài năng ngôn ngữ của Shepard từ đâu mà ra? Greenfield không thể lý giải được điều đó. Nhưng những vở kịch bắt đầu tuôn tràn từ anh, hàng tá trong số đó.

Những tác phẩm đầu tay của Shepard, với những nhan đề như “Shaved Splits” và “Back Bog Beast Bait”, là những tuyên ngôn quả quyết tuôn ào ào như những dòng thác huyền ảo và chúng đã phá vỡ hầu như mọi quy ước. Mọi thứ Shepard viết đều trần trùi trụi và hơi xộc xệch; các kịch tác gia Beckett và Pinter đang dõi mắt canh chừng qua vai anh. Đã qua rồi bất kỳ tàn tích nào của chủ nghĩa nhân văn tẻ ngắt hay những cú đâm vào “độ sâu” theo kiểu Arthur Miller. Các vở kịch của anh được trình diễn tại các rạp thử nghiệm mới mẻ ở trung tâm thành phố như Café La MaMa, Theater Genesis và Caffe Cino.

Thỉnh thoảng anh cho một ban nhạc rock lên sân khấu, một sự tấn công vào cảm xúc giả tạo của những bài hát trong vở kịch. Đôi khi ban nhạc đó là Holy Modal Rounders, anh chơi trống cùng ban nhạc này. (Hồi năm 1968, tại Avalon Ballroom ở San Francisco, ban nhạc Rounders đã mở màn cho Pink Floyd.) Shepard chính là người đã thuyết phục Patti Smith, khi đó là một nữ thi sĩ, thử đứng trước một nhóm nhạc sĩ ồn ào và sôi động, để rồi trở thành một ngôi sao nhạc rock.

Năm 1967 anh giành được Giải thưởng Obie đầu tiên cho vở kịch “La Turista”. Elizabeth Hardwick bình luận về vở này trên tạp chí The New York Review of Books và gọi nó là “một tác phẩm đáng quan tâm bậc nhất”. Anh mới 24 tuổi khi Michelangelo Antonioni đưa anh đến Rome để giúp viết kịch bản cho phim “Zabriskie Point”. Cuối năm đó, anh sống trong điền trang ở vùng thôn dã của Keith Richards trong khi viết một kịch bản cho ban nhạc Rolling Stones. Anh lưu trú ở khách sạn Chateau Marmont khi ở Los Angeles và mua đất ở Cape Breton, Nova Scotia, gần nhà soạn nhạc Philip Glass và nhà sản xuất phim tài liệu Robert Frank.

Bạn bè chốn cũ của Shepard ở New York cho rằng anh đang trở nên kiêu ngạo thái quá. Họ đã cố thử bắt cóc anh vào một đêm khai mạc, như một kiểu can thiệp chữa bệnh. Điều họ không biết là tài năng của anh vẫn chưa hoàn toàn nở rộ. Từ năm 1977 đến 1985, anh đã viết nên những tác phẩm hay nhất và chín muồi nhất của mình: các vở kịch gồm “Curse of the Starving Class” (“Lời nguyền đeo đẳng tầng lớp chết đói”), “Buried Child” (“Đứa con được chôn cất”), “True West” (Miền Tây đích thực”), “Fool for Love”( “Khờ dại vì yêu”) và “A Lie of the Mind” (“Sự dối trá của tâm trí”), nhiều vở kịch về gia đình tan rã. Diễn tiến của hầu hết trong số những vở này chỉ vừa phát triển. Chúng vẫn khiến bạn diễn giải lại trải nghiệm của mình.

Trong số các nhà soạn kịch, anh có tài năng hiếm thấy là có thể biểu đạt rõ ràng những gì không nói được thành lời ngay bên cạnh những gì đã nói. Anh không thích đi lại bằng máy bay và viết một số vở kịch khi đang lái xe trên đường, ghim giấy viết của mình vào vô lăng.

Danh tiếng của Shepard lên đến đỉnh điểm vào năm 1983, khi anh xuất hiện với vai viên phi công thử nghiệm kiệm lời Chuck Yeager từ Tây Virginia trong bộ phim ăn khách nhất “The Right Stuff” (“Phẩm chất lý tưởng”) của đạo diễn Philip Kaufman dựa trên cuốn sách cùng tên của Tom Wolfe. Anh nhận được đề cử Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, nhưng thua Jack Nicholson trong “Terms of Endearment” (“Những cái tên âu yếm).

Greenfield xem xét kỹ lưỡng tư liệu này trong mối quan hệ với một loạt cảnh quay đình đám. Chúng gồm các cuộc đụng độ với những nhân vật rất uy tín trong đó có Antonioni; Dylan, người mà anh cảm thấy rất thẳng thắn; đạo diễn kịch Joe Papp; và đạo diễn Robert Altman, người đã làm bộ phim “Fool for Love”.

Những đoạn kể về thời gian Shepard ở bên Smith thật đáng yêu. Họ bị thứ tình yêu tội lỗi đầy phấn khích cuốn trôi qua các hành lang của khách sạn Chelsea, một bức ảnh của Robert Doisneau khơi lại cuộc sống phóng túng. Shepard vừa mới kết hôn với O-Lan Jones khi anh va phải Smith. Jones biết, và anh biết, rằng anh là một người-hùng-phản-bội. Những quy tắc thông thường phải chừa anh ra. Hồi năm 1985, anh phát biểu với Newsweek về những năm đầu ở thành phố này: “Tôi điều khiển mọi thứ theo ý muốn”.

Anh gặp Lange trên trường quay bộ phim “Frances” năm 1982. Cô trẻ hơn anh sáu tuổi và vừa sinh một đứa con với Mikhail Baryshnikov. Dẫu rằng cô và Shepard chưa bao giờ kết hôn nhưng họ đã ở bên nhau gần ba thập kỷ, phần lớn thời gian đó họ ở trang trại nuôi ngựa rộng 107 mẫu Anh gần Charlottesville, bang Virginia.

Những vở kịch về sau của Shepard không thuộc về những vở kịch hay nhất của ông, nhưng tầm cỡ của ông cao đến mức khán giả thiên về cảm giác rằng thất bại đó là của chính họ vì đã không hiểu hết giá trị của chúng.

Cuộc đời của Shepard thật khó mà bóp méo được, và Greenfield đã không làm thế. Phần ông viết về những năm cuối đời của kịch tác gia này rất chi tiết và cảm động. Bất chấp những vụ bị bắt giữ vì lái xe trong tình trạng say xỉn và những chương trình truyền hình xoàng xĩnh, chúng ta vẫn thấy chân giá trị con người Shepard. Cứ như thể ông đang noi theo chỉ đạo của Shakespeare trên sân khấu: “Hãy giữ chút trang nghiêm trên lối ra của cậu, và biến đi”.

TRUE WEST: Sam Shepard’s Life, Work and Times | By Robert Greenfield | Illustrated | 432 pp. | Crown | $30

Dwight Garner has been a book critic for The Times since 2008. His most recent book is “Garner’s Quotations: A Modern Miscellany.”

https://www.nytimes.com/2023/04/03/books/review/sam-shepard-biography-robert-greenfield.html

Tuesday, October 29, 2024

Hồi ký chính trị đa phần là đồ bỏ. Nhà phê bình này tìm thấy những thứ hấp dẫn và thú vị.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Trong “The Washington Book” (“Sách Washington”), nhà phê bình đoạt giải Pulitzer Carlos Lozada đã khai thác thể loại nổi tiếng do thứ văn xuôi đã được tinh lọc để tạo hiệu ứng khám phá.

Thủ đô nước ta là nơi bắt nguồn của một thể loại văn học buồn tẻ – loại sách Washington: hồi ký chính trị, tiểu sử các ứng viên tranh cử tổng thống, chuyên luận về chính sách và các tác phẩm khác của các chính trị gia, quan chức chính phủ và những kẻ theo đóm ăn tàn ở thủ đô Washington. Những thứ này thường là tự tô vẽ bản thân, viết kém hoặc cực kỳ nhàm chán. Nhiều người mua và bàn luận về những cuốn sách này, song thực tế ít người đọc chúng (ngoại trừ việc đọc lướt phần mục lục để tìm tên của họ).

Trò chơi đố chữ đó đã thu hút sự chú ý hồi năm 1985 khi Michael Kinsley, thời đó là nhà biên tập của tạp chí The New Republic, cài một tờ giấy lưu ý sâu bên trong các ấn bản của những cuốn sách chính trị nổi tiếng tại một hiệu sách ở khu vực Washington, treo giải thưởng 5 USD cho bất kỳ ai tìm thấy tờ lưu ý ấy. Chẳng ai gọi đến để đòi phần thưởng.

Carlos Lozada, nhà báo chuyên mục của tờ New York Times, nguyên là nhà phê bình và biên tập của tờ Washington Post, cho rằng loại sách Washington đã bị mang tiếng xấu. Ông lập luận rằng, với sự nghiên cứu kỹ lưỡng bằng con mắt tinh tường phù hợp, những cuốn sách đó có thể cho ta những hiểu biết sâu sắc bất ngờ về nền chính trị Mỹ và những người bị lôi kéo vào cuộc xung đột.

Ông đề cao không chỉ việc đọc hết những cuốn sách như vậy mà cả việc lục lọi ra những chi tiết gây ấn tượng, những thói khoa trương, những thứ mà các chính trị gia có thể không muốn bị để ý đến – và là những thứ mà họ thậm chí không nhận ra ở chính bản thân họ. Trong tuyển tập mới của mình, “The Washington Book: How to Read Politics and Politicians” (“Sách Washington: Cách đọc vị các hoạt động chính trị và các chính trị gia”), Lozada tập hợp các bài tiểu luận ông viết từ năm 2013 đến năm 2023, một số trong các bài đó đã mang về cho ông Giải Pulitzer về phê bình năm 2019.

Ông có lợi thế đặc biệt về thập kỷ này: cảm nhận của người trong cuộc về động lực chính trị và tính khách quan của một nhà phê bình văn học. Những quan sát mang dấu ấn của ông – về các chủ đề khác nhau từ George H. W. Bush cho đến Vladimir Putin và Ron DeSantis – đều là những sự “vạch trần” ở cấp độ cao, mang tính trí tuệ.

“Cho dù các chính trị gia này có cẩn thận làm sạch kinh nghiệm, vị trí và hồ sơ của họ đến mức nào, cho dù họ có siêng năng trình diện bản thân với vẻ ngoài đẹp nhất, an toàn nhất, được lòng dân nhất hoặc dễ xác minh thật giả nhất ra sao – rốt cuộc hầu hết bọn họ cũng luôn tự bộc lộ bản thân,” ông viết. “Dù họ có ý định làm thế hay không, trong những cuốn sách của họ, họ cho chúng ta biết họ thực sự là ai.”

Lấy ví dụ lời giải thích của Donald Trump, trong cuốn sách xuất bản năm 2004, về lý do vì sao mái tóc của ông ta luôn gọn gàng chải chuốt như vậy. Bởi vì ngày ngày ông ta chỉ đi lại giữa nhà mình – cũng là văn phòng của ông – và một chiếc xe limo dài, câu lạc bộ dành riêng, máy bay phản lực và trực thăng, theo những lời huênh hoang của Trump, nên ông ta hiếm khi ra ngoài. Lozada nhận ra ẩn ý ở đây: Trump đã sống trong vỏ bọc tự tạo từ rất lâu trước khi bước chân vào Nhà Trắng. “Trong một đoạn độc thoại về mái tóc, Trump bộc lộ sự cô lập hoàn toàn được tạo ra một cách có chủ ý của mình – kiểu cô lập cho phép ta đưa ra bất kỳ câu chuyện nào ta đã sáng tác cho chính mình,” là nhận định của Lozada, tác giả cuốn sách “What Were We Thinking: A Brief Intellectual History of the Trump Era” (“Chúng ta đang nghĩ gì: Lược sử trí tuệ về thời đại Trump”) ra mắt năm 2020, cuốn sách là sự đọc kỹ có phân tích diễn giải hàng chục cuốn sách do Trump viết hoặc viết về Trump.

Trong cuốn hồi ký “So Help Me God” (“Xin Chúa giúp con” – xuất bản năm 2022) của Mike Pence, hành vi bộc lộ nằm ở những gì chưa được nói ra. Pence sử dụng đoạn trích dẫn bị cắt xén từ những bình luận của Trump ngày 6/1 để che giấu sự đồng cảm của ông ta đối với những kẻ bạo loạn ở Điện Capitol. Pence muốn được khen ngợi vì đã kháng lệnh của Trump đòi lật ngược cuộc bầu cử nhưng đưa ra chẳng được mấy bằng chứng về việc chống lại Trump trong bốn năm làm Phó tổng thống. Lozada phát hiện và vạch trần ông ta: “Ông không nên nhận sự vinh quang vì đã kéo nền dân chủ ra khỏi bờ vực nếu ngay từ đầu ông đã chung tay đưa nó đến đó.”

Điều hiếm thấy trong số những người bình sách là đôi khi Lozada quay lại những cuốn sách cũ hơn mà đột nhiên có được sự quan tâm mới. Đọc cuốn tự truyện về chiến dịch tranh cử năm 2019 của Kamala Harris khá lâu sau khi bà từ bỏ việc tranh cử tổng thống, ông phát hiện ra lý do thất bại của bà này nằm trong mấy từ: bà liên tục lên án “những lựa chọn sai lầm” trong chính sách và chính trị. Lozada coi cụm từ này như thứ dùng để che đậy cho sự miễn cưỡng của bà khi phải chọn phe phái trong những vấn đề hiểm hóc. Điều đó không ngăn cản Biden chọn bà làm người đồng tranh cử với mình nhưng có thể giúp lý giải những nỗ lực lớn của bà trong việc tìm kiếm một chỗ đứng thích hợp như vị trí phó tổng thống.

Tổng kết lại cách tiếp cận của mình, Lozada viết: “Nếu nghệ thuật chính trị có thể loại trừ ý nghĩa ra khỏi ngôn ngữ, để tạo ra ngày càng nhiều từ được nói ngày càng ít, mục đích của tôi là cố gắng tìm ra ý nghĩa đó và đem nó trở lại. ”

Lozada đáp ứng các độc giả rất tốt khi ông nỗ lực xử lý một đống sách về một chủ đề duy nhất để cung cấp bối cảnh rộng hơn. Điều này đặc biệt được hoan nghênh khi ông xem xét các báo cáo của chính phủ mà hiếm khi được đọc từ đầu đến cuối, chẳng hạn như việc ông so sánh ba báo cáo điều tra về Trump: báo cáo của Mueller về sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử năm 2016; báo cáo của Ủy ban Tình báo Hạ viện năm 2019 về việc ông ta gây áp lực buộc Ukraine điều tra Hunter Biden; và báo cáo của Ủy ban Chuyên môn của Hạ viện năm 2022 về vai trò của ông ta trong cuộc tấn công ngày 6/1 vào Điện Capitol.

Tài liệu gộp đó là biên niên sử phong phú về một vị tổng thống, người mà theo thời gian, ngày càng trở nên lành nghề và toan tính trong việc sử dụng các cơ chế của chính phủ để đạt được lợi ích chính trị. Những vụ bê bối của Trump được coi là những câu chuyện chồng chéo: Vụ bê bối Ukraine năm 2019, với mục đích làm mất uy tín của Joe Biden thông qua con trai ông ta, là nỗ lực nhằm thao túng cuộc bầu cử năm 2020 cũng chắc chắn như vụ bạo loạn ngày 6/1.

“The Washington Book’’ có nguy cơ là toàn bộ hợp tuyển của các bài báo đã xuất bản trước đó. Một số có vẻ hơi lỗi thời hoặc kém hấp dẫn hơn so với khi chúng ra mắt lần đầu. Giờ còn ai quan tâm đến “Người ẩn danh”, tác giả của bài báo đột phá nêu quan điểm chống Trump năm 2018 không? Chúng ta có thực sự cần phải đọc lại cả đống sách cay nghiệt tấn công Hillary Clinton hồi năm 2016 không?

“The Washington Book” đã không thuyết phục tôi đọc thêm loại sách Washington. Nhưng nó đã khuyến khích tôi đọc thêm Carlos Lozada và thấy biết ơn rằng, như người ta thường nói với ông, “Ông đọc những cuốn sách đó nên chúng tôi không cần phải đọc nữa!”

THE WASHINGTON BOOK: How to Read Politics and Politicians | By Carlos Lozada | Simon & Schuster | 390 pp. | $28.99

https://www.nytimes.com/2024/02/24/books/review/the-washington-book-carlos-lozada.html

10 bộ phim xưa rất đáng xem – và lý do vì sao bạn không nên bỏ lỡ chúng

Thập niên 1980 là một thời kỳ vàng cho những ai yêu phim xưa: máy chiếu VHS bắt đầu phổ biến, các rạp chiếu phim hồi cố còn hoạt động rộn rà...