nguồn: New York Times,
biên dịch: Takya Đỗ,
“True West” là cuốn tiểu sử mới về một kịch tác gia kiêm diễn viên, bản thân ông là người kiệm lời nhưng tác phẩm của ông lại nói lên rất nhiều.
Nguyên tắc đầu tiên để làm bạn với Bob Dylan, như người ta đồn, là không được nói về Bob Dylan. Một thứ luật im lặng [omertà] tương tự dường như được áp dụng đối với Sam Shepard, kịch tác gia kiêm diễn viên, và nó đã được giữ nguyên kể từ khi ông qua đời năm 2017. Rất nhiều người đã xếp hàng để không nói chuyện với nhà văn mới nhất viết tiểu sử về ông, đa phần những người đó đã xếp hàng để không nói chuyện với những nhà văn trước đó viết tiểu sử về ông.
“True West: Sam Shepard's Life, Work, and Times” (“Miền Tây đích thực: Thân thế, sự nghiệp và thời đại của Sam Shepard”) của tác giả Robert Greenfield là cuốn tiểu sử thứ tư về Shepard, sau cuốn tiểu sử của Don Shewey xuất bản năm 1985, cuốn của Ellen Oumano xuất bản năm 1986 và cuốn của John J. Winters xuất bản năm 2017. Theo ghi chú về nguồn tin của Greenfield, tác giả đã thuyết phục được 38 người chịu cho ông phỏng vấn. Con số đó không có gì đáng hổ thẹn, nhưng đây không phải cái tài siêu thám tử của nhà văn viết tiểu sử lừng danh Robert Caro.
Theo quan niệm cũ, đánh giá một bữa tiệc không phải bởi những người hiện diện tại đó, mà bởi những người không hiện diện. Những người không hiện diện [ở cuộc phỏng vấn] gồm có người vợ đầu tiên của Shepard là O-Lan Jones, người bạn đời lâu năm của ông là Jessica Lange; những người tình của ông là Patti Smith, Brooke Adams và Joni Mitchell (bài hát “Coyote” của bà là về ông); và vô số bạn bè và những người cộng tác, trong đó có Terrence Malick, Keith Richards, Ed Harris, Peter Coyote, Wim Wenders, John Malkovich, T Bone Burnett, Diane Keaton, Ethan Hawke và cả Dylan, cùng với ông này Shepard đã viết những ca từ bất hủ trong bài hát “Brownsville Girl”: “Ngay cả những cuộc tụ họp mua bán trao đổi quanh đây cũng đang trở nên khá bất lương.”
Cuốn sách của Greenfield trung thực với cuộc đời của Shepard, mặc dù nó nhảy cách quãng như một viên đá lướt trên mặt nước. Shepard dành nhiều thời gian để hạ bức màn che và hướng tới câu chuyện thần thoại về chính bản thân ông. Ông trả lời rất nhiều cuộc phỏng vấn về việc không thích trả lời phỏng vấn. Cũng như Dylan, bản thân ông là người kiệm lời; trái lại, trong tác phẩm của mình, từ ngữ của ông tuôn tràn như xô nước đầy. Cũng như Dylan, ông đã ném ra hàng triệu ý tưởng và hình ảnh và để chúng lại cho những người khác cố gắng nhặt nhạnh.
Shepard đã nói dối về cuộc đời mình một cách bản năng, vì vậy có rất nhiều vấn đề cần tháo gỡ. Ông đẹp trai, thanh nhã, rắn chắc và chân tay dài rộng, đến mức người ta thấy choáng khi ở cạnh ông – ông khiến mọi người trở nên ngu ngốc, hoặc muốn khóc, hoặc tức giận hoặc khao khát được chạm vào, đôi khi là tất cả các cảm xúc này cùng một lúc. Hầu như đi đâu ông cũng chỉ đội những chiếc mũ John Deere, nhay nhay những chiếc tăm và thốt ra những lời bình phẩm kiểu một-gã-bình-dân: “Tôi học được từ trường đua nhiều hơn là từ Shakespeare” và “Tôi ở lại với ngành điện ảnh chỉ để nuôi những con ngựa của mình”. Bạn những muốn phần ảnh lồng vào cuốn sách (tại sao chỉ có một?) kéo dài khoảng vài chục trang.
“True West” là cuốn tiểu sử đầu tiên của Shepard kể từ khi ông qua đời ở tuổi 73, do biến chứng của bệnh xơ cứng teo cơ một bên, hay còn gọi là bệnh Lou Gehrig. Cơ thể của ông đã bị tấn công bất ngờ theo những cách khác nữa. Việc hút thuốc gây hậu quả nghiêm trọng cho ông. Ông phải đặt một stent để thông một động mạch bị tắc. Ông mang theo bên mình một máy thở ôxy.
Những năm gần đến 70 tuổi, ông đột ngột suy sụp. Năm 72 tuổi, ông bị bắt giữ lần hai vì lái xe trong tình trạng say xỉn. Về mặt vai diễn của ông, ông hiếm khi lựa chọn phù hợp, song gần cuối đời ông có cần phải xuất hiện trên bộ phim truyền hình dài tập “Klondike” của Discovery Channel không?
Greenfield là nhà văn viết tiểu sử lành nghề có nhiều tác phẩm, ông đã viết về cuộc đời của Jerry Garcia, Bill Graham, Timothy Leary và Burt Bacharach, cùng nhiều người khác. Cuốn tiểu sử Shepard của ông thiếu độ phức tạp nhất định, và thiếu nhận thức phê phán, nhưng nó có cấu trúc hợp lý và được viết rất mạch lạc. Nó bao quát mọi góc độ một cách khéo léo.
Tên khai sinh của Richard Hell là Richard Meyers, và tên khai sinh của Iggy Pop là Jim Osterberg. Thế còn Ramblin' Jack Elliott? Tên thật của ông là Elliot Adnopoz. Năm 1963, khi Sam Shepard đến Manhattan, ở tuổi 19, anh được gọi là Steve Rogers, mặc dù tên đầy đủ của anh là Samuel Shepard Rogers III.
Cha Shepard là phi công lái chiến đấu cơ B-24 Liberator trong Thế chiến II. Thói rượu chè và khí độ trượng phu, ngang tàng của người cha đã tái hiện ở các nhân vật trong một số vở kịch hay nhất của Shepard, gồm cả vở “Fool for Love” (“Khờ dại vì yêu” – 1983). Shepard lớn lên ở Nam California, Nam Pasadena và sau đó là ở Duarte, trong một nông trại trồng bơ, mặc dù cha mẹ anh đều dạy ở các trường trung học dành riêng cho giới nhà giàu. Chàng trai trẻ Shepard nghĩ mình có thể trở thành bác sĩ thú y. Chàng bắt đầu sáng tác những vở kịch khi còn học đại học cộng đồng, trước khi bỏ học.
Shepard quen biết con trai của Charles Mingus là Charles Mingus III ở trường trung học. Cậu Mingus con đã giúp Shepard kiếm được công việc dọn bàn ở Village Gate, hộp đêm ở Greenwich Village. Tài năng ngôn ngữ của Shepard từ đâu mà ra? Greenfield không thể lý giải được điều đó. Nhưng những vở kịch bắt đầu tuôn tràn từ anh, hàng tá trong số đó.
Những tác phẩm đầu tay của Shepard, với những nhan đề như “Shaved Splits” và “Back Bog Beast Bait”, là những tuyên ngôn quả quyết tuôn ào ào như những dòng thác huyền ảo và chúng đã phá vỡ hầu như mọi quy ước. Mọi thứ Shepard viết đều trần trùi trụi và hơi xộc xệch; các kịch tác gia Beckett và Pinter đang dõi mắt canh chừng qua vai anh. Đã qua rồi bất kỳ tàn tích nào của chủ nghĩa nhân văn tẻ ngắt hay những cú đâm vào “độ sâu” theo kiểu Arthur Miller. Các vở kịch của anh được trình diễn tại các rạp thử nghiệm mới mẻ ở trung tâm thành phố như Café La MaMa, Theater Genesis và Caffe Cino.
Thỉnh thoảng anh cho một ban nhạc rock lên sân khấu, một sự tấn công vào cảm xúc giả tạo của những bài hát trong vở kịch. Đôi khi ban nhạc đó là Holy Modal Rounders, anh chơi trống cùng ban nhạc này. (Hồi năm 1968, tại Avalon Ballroom ở San Francisco, ban nhạc Rounders đã mở màn cho Pink Floyd.) Shepard chính là người đã thuyết phục Patti Smith, khi đó là một nữ thi sĩ, thử đứng trước một nhóm nhạc sĩ ồn ào và sôi động, để rồi trở thành một ngôi sao nhạc rock.
Năm 1967 anh giành được Giải thưởng Obie đầu tiên cho vở kịch “La Turista”. Elizabeth Hardwick bình luận về vở này trên tạp chí The New York Review of Books và gọi nó là “một tác phẩm đáng quan tâm bậc nhất”. Anh mới 24 tuổi khi Michelangelo Antonioni đưa anh đến Rome để giúp viết kịch bản cho phim “Zabriskie Point”. Cuối năm đó, anh sống trong điền trang ở vùng thôn dã của Keith Richards trong khi viết một kịch bản cho ban nhạc Rolling Stones. Anh lưu trú ở khách sạn Chateau Marmont khi ở Los Angeles và mua đất ở Cape Breton, Nova Scotia, gần nhà soạn nhạc Philip Glass và nhà sản xuất phim tài liệu Robert Frank.
Bạn bè chốn cũ của Shepard ở New York cho rằng anh đang trở nên kiêu ngạo thái quá. Họ đã cố thử bắt cóc anh vào một đêm khai mạc, như một kiểu can thiệp chữa bệnh. Điều họ không biết là tài năng của anh vẫn chưa hoàn toàn nở rộ. Từ năm 1977 đến 1985, anh đã viết nên những tác phẩm hay nhất và chín muồi nhất của mình: các vở kịch gồm “Curse of the Starving Class” (“Lời nguyền đeo đẳng tầng lớp chết đói”), “Buried Child” (“Đứa con được chôn cất”), “True West” (Miền Tây đích thực”), “Fool for Love”( “Khờ dại vì yêu”) và “A Lie of the Mind” (“Sự dối trá của tâm trí”), nhiều vở kịch về gia đình tan rã. Diễn tiến của hầu hết trong số những vở này chỉ vừa phát triển. Chúng vẫn khiến bạn diễn giải lại trải nghiệm của mình.
Trong số các nhà soạn kịch, anh có tài năng hiếm thấy là có thể biểu đạt rõ ràng những gì không nói được thành lời ngay bên cạnh những gì đã nói. Anh không thích đi lại bằng máy bay và viết một số vở kịch khi đang lái xe trên đường, ghim giấy viết của mình vào vô lăng.
Danh tiếng của Shepard lên đến đỉnh điểm vào năm 1983, khi anh xuất hiện với vai viên phi công thử nghiệm kiệm lời Chuck Yeager từ Tây Virginia trong bộ phim ăn khách nhất “The Right Stuff” (“Phẩm chất lý tưởng”) của đạo diễn Philip Kaufman dựa trên cuốn sách cùng tên của Tom Wolfe. Anh nhận được đề cử Oscar cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất, nhưng thua Jack Nicholson trong “Terms of Endearment” (“Những cái tên âu yếm).
Greenfield xem xét kỹ lưỡng tư liệu này trong mối quan hệ với một loạt cảnh quay đình đám. Chúng gồm các cuộc đụng độ với những nhân vật rất uy tín trong đó có Antonioni; Dylan, người mà anh cảm thấy rất thẳng thắn; đạo diễn kịch Joe Papp; và đạo diễn Robert Altman, người đã làm bộ phim “Fool for Love”.
Những đoạn kể về thời gian Shepard ở bên Smith thật đáng yêu. Họ bị thứ tình yêu tội lỗi đầy phấn khích cuốn trôi qua các hành lang của khách sạn Chelsea, một bức ảnh của Robert Doisneau khơi lại cuộc sống phóng túng. Shepard vừa mới kết hôn với O-Lan Jones khi anh va phải Smith. Jones biết, và anh biết, rằng anh là một người-hùng-phản-bội. Những quy tắc thông thường phải chừa anh ra. Hồi năm 1985, anh phát biểu với Newsweek về những năm đầu ở thành phố này: “Tôi điều khiển mọi thứ theo ý muốn”.
Anh gặp Lange trên trường quay bộ phim “Frances” năm 1982. Cô trẻ hơn anh sáu tuổi và vừa sinh một đứa con với Mikhail Baryshnikov. Dẫu rằng cô và Shepard chưa bao giờ kết hôn nhưng họ đã ở bên nhau gần ba thập kỷ, phần lớn thời gian đó họ ở trang trại nuôi ngựa rộng 107 mẫu Anh gần Charlottesville, bang Virginia.
Những vở kịch về sau của Shepard không thuộc về những vở kịch hay nhất của ông, nhưng tầm cỡ của ông cao đến mức khán giả thiên về cảm giác rằng thất bại đó là của chính họ vì đã không hiểu hết giá trị của chúng.
Cuộc đời của Shepard thật khó mà bóp méo được, và Greenfield đã không làm thế. Phần ông viết về những năm cuối đời của kịch tác gia này rất chi tiết và cảm động. Bất chấp những vụ bị bắt giữ vì lái xe trong tình trạng say xỉn và những chương trình truyền hình xoàng xĩnh, chúng ta vẫn thấy chân giá trị con người Shepard. Cứ như thể ông đang noi theo chỉ đạo của Shakespeare trên sân khấu: “Hãy giữ chút trang nghiêm trên lối ra của cậu, và biến đi”.
TRUE WEST: Sam Shepard’s Life, Work and Times | By Robert Greenfield | Illustrated | 432 pp. | Crown | $30
Dwight Garner has been a book critic for The Times since 2008. His most recent book is “Garner’s Quotations: A Modern Miscellany.”
https://www.nytimes.com/2023/04/03/books/review/sam-shepard-biography-robert-greenfield.html