Search This Blog

Thursday, October 10, 2024

Làn sóng toàn cầu hóa thứ ba có lẽ là làn sóng dữ dội nhất

nguồn: The Economist, 

biên dịch: Quỳnh Anh,

Sailing from Dublin Port. Photo courtesy William Murphy.

Kinh tế toàn cầu trong quá khứ và tương lai: Trước tiên là tự do trao đổi hàng hóa, sau đó sẽ đến tự do trao đổi thông tin. Nhưng đà này có thể sẽ dừng lại ở việc tự do trao đổi con người.

Bill Clinton từng gọi toàn cầu hóa là "lực đẩy kinh tế tương đương với lực
tự nhiên, giống như gió và nước". Nó thúc đẩy các quốc gia chuyên môn hóa và trao đổi, khiến các quốc gia giàu có hơn, và thế giới nhỏ hơn. Trong cuốn "The Great Convergence" ("Cuộc hội tụ vĩ đại"), Richard Baldwin, nhà kinh tế học tại Geneva, cho biết thêm một chi tiết quan trọng: như gió và nước, toàn cầu hóa rất mạnh mẽ, nhưng có thể có tính chất hay thay đổi hoặc thậm chí là phá hoại. Trừ khi những khái niệm được yêu thích bắt kịp với thực tế, nếu không các chính trị gia sẽ bị thúc đẩy thực hiện nhiều sai lầm nghiêm trọng.

Trong thế giới mơ ước của một nhà kinh tế học, hàng hóa, thông tin và con người sẽ tự do di chuyển qua mọi biên giới. Thực tế khó khăn phức tạp hơn nhiều, và mọi thứ đều ít tính di động hơn—đến mức tổ tiên loài người bị mắc kẹt trong các nền kinh tế làng xã. Các hạn chế về thương mại đã từng bó buộc cả tiêu thụ và sản xuất, hạn chế cả hai phát triển.

Lý thuyết tổng quát của tác giả Baldwin về toàn cầu hoá là một loạt hành động tháo dỡ những bó buộc, được thúc đẩy dần dần do chi phí vận chuyển hàng hóa và thông tin từ nơi này sang nơi khác giảm. Từ việc thuần hóa lạc đà khoảng 1.000 năm trước Công nguyên cho đến động cơ hơi nước thương mại đầu tiên vào năm 1712, làn sóng lớn đầu tiên của toàn cầu hóa đã cởi trói cho sản xuất và tiêu thụ. Từ năm 1820, giá cả ở Anh đã được điều chỉnh theo nhu cầu quốc tế, và thực khách ngồi quán nước có thể nhâm nhi trà Trung Quốc pha bằng đường Jamaica.

Mặc dù vận chuyển hàng hóa đã trở nên rẻ hơn, cho đến cuối thế kỷ 20 việc trao đổi thông tin vẫn rất đắt đỏ. Tác giả Baldwin muốn các độc giả trên 50 tuổi nhớ lại những cuộc gọi quốc tế giá 5 USD một phút, hoặc giá gửi chỉ một tài liệu bằng chuyển phát qua đêm là 50 USD. Điều này đã khuyến khích các ngành công nghiệp tụ thành cụm. Các trung tâm về hoạt động kinh tế nổi lên tại các quốc gia hiện giờ chúng ta biết đến với cái tên G7. Trong hình thức toàn cầu hóa này, các nhóm có thông tin và nhân công của quốc gia đấu tranh giành thị phần, và qua quá trình đó trở nên giàu có. Tác giả Baldwin đưa ra so sánh tương tự như hai đội thể thao trao đổi cầu thủ để cải thiện khả năng thi đấu của họ.

Nhưng từ những năm 1990, toàn cầu hóa đã thay đổi hoàn toàn, bởi internet đã loại bỏ chi phí trao đổi thông tin, và thúc đẩy quá trình tháo dỡ bó buộc thứ hai. Hiện nay phối hợp sản xuất quốc tế đã rẻ hơn, nhanh hơn và an toàn hơn, các chuỗi cung ứng đã vượt qua khỏi biên giới và vươn ra toàn thế giới. Một nhà sản xuất máy bay tại Canada có thể điều hành một nhóm các kỹ sư Mexico. Apple có thể kết hợp thiết kế của Mỹ với dây chuyền lắp ráp ở Trung Quốc. Với các sản phẩm được sản xuất ở khắp mọi nơi, ngành thương mại hiện đã không còn trong phạm vi quốc gia.

Tốc độ thay đổi và các công ty giàu có trên thế giới cùng khả năng mới dễ dàng thuê gia công đã loại bỏ các ranh giới cũ xung quanh điều đã biết và tạo ra một cảnh quan thương mại mới đáng lo ngại hơn. Có thời, công nhân nhà máy dệt ở Nam Carolina có độc quyền tiếp cận công nghệ của Mỹ. Mặc dù có vẻ như họ thua trong cạnh tranh với công nhân Mexico, nhưng chính xác hơn là họ phải đối mặt với một đối thủ đáng gờm hơn: Công nhân Mexico đã làm việc hiệu quả hơn bằng bí quyết làm việc của Mỹ.

Tiếp tục bằng lối ví von về thể thao, tác giả Baldwin kể rằng thương mại ngày nay cũng giống như các huấn luyện viên của một đội bóng hàng đầu được phép cung cấp dịch vụ của mình cho các đội yếu hơn. Huấn luyện viên làm giàu từ thị trường nay lớn gấp đôi đối với dịch vụ của mình, trong khi đội mạnh hơn nhận được ngạc nhiên bất ngờ từ đối thủ cạnh tranh mới có kỹ năng tốt. Tác giả cho rằng bất mãn với toàn cầu hóa bắt nguồn một phần từ "ý thức mơ hồ rằng đây không phải là sân chơi cho các đội tuyển quốc gia".

Hành động xoa dịu cử tri bằng cách tăng thuế là cách giải quyết vấn đề toàn cầu hóa của thế kỷ 21 bằng các công cụ vốn thích hợp hơn cho thế kỷ 20 (hoặc thậm chí là thế kỷ 19). Với thế giới mới của các chuỗi cung ứng toàn cầu, việc đánh thuế bảo hộ chẳng khác nào dựng một bức tường ở giữa nhà máy. Các chính sách thế kỷ 21 mà tác giả Baldwin đề xuất bao gồm việc thiết lập quy tắc và tiêu chuẩn chung nhằm đảm bảo các công ty cảm thấy an toàn rằng các chuỗi cung ứng của họ sẽ hoạt động. Đây là mục tiêu của các giao dịch thương mại như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, hoặc tư cách thành viên của Vương quốc Anh trong liên minh hải quan của Liên minh châu Âu—hiện đều đang bị đe dọa. Nhưng ông không nói nhiều về vấn đề làm thế nào để làm hài lòng các cử tri bất mãn, để giữ một vài hỗ trợ cho người lao động chứ không giữ việc làm, và một lời kêu gọi mơ hồ về chia sẻ lợi ích giữa người thắng và kẻ thua.

Tác giả Baldwin đầy hy vọng về chính trị của toàn cầu hóa. Viễn cảnh màu hồng của ông về tương lai hình dung rằng toàn cầu hóa sẽ tháo bỏ được mối ràng buộc thứ ba, bởi lao động hiện giờ đã có tính di động nhờ có robot cho phép người ta cung cấp dịch vụ từ xa. Trong một thế giới khác, có lẽ vậy. Lời nói dí dỏm trong kết luận của ông, được viết trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, chứa sức nặng bất ngờ. "Ngay cả tương lai cũng không phải tương lai của ngày xưa."

'Nước Đức năm 1923': Khi nền dân chủ ngăn chặn chủ nghĩa phát xít

nguồn: New York Times,

biên dịch: Quỳnh Anh,


Trong cuốn sách mới nhất, nhà sử học người Đức Volker Ullrich mô tả một đất nước bị vùi dập bởi nghèo đói, siêu lạm phát và chủ nghĩa cực đoan chính trị, nhưng — trong một khoảng thời gian — ngăn chặn được sự trỗi dậy của Hitler.

Cuộc nổi dậy thất bại. Chế độ chính trị ngăn được— ít nhất là trong một khoảng thời gian. Tháng 11 năm 1923, khi ấy kẻ mị dân trẻ tuổi có tên Adolf Hitler cố gắng khởi động cách mạng Đức Quốc xã từ một quán bia ở Munich, nỗ lực đảo chính của ông ta vô tổ chức đến độ nhanh chóng biến thành hỗn loạn tai hại. Một người tham gia về sau kể lại hoạt động này là trò hề đến mức anh ta thì thầm với những người khác là, “Hãy cứ chơi cùng vở hài kịch này đi.”

Thay vì chiếm được quyền kiểm soát, Hitler lại bị trật khớp vai và phải ngồi tù một thời gian ngắn. Nhưng trong cuốn “Germany 1923”, nhà sử học Volker Ullrich nhắc nhở chúng ta những diễn biến lộn xộn trong sự kiện gọi là Đảo chính quán bia “cực kỳ nghiêm trọng.” Một thập kỷ sau, Hitler được bổ nhiệm làm thủ tướng Đức, và Cộng hòa Weimar — nền dân chủ thử nghiệm đầu tiên của đất nước — sẽ chấm dứt. Tháng 11 năm 1933, bài báo trên tờ The Times mô tả cuộc tụ họp ăn mừng của Đức Quốc xã: “Các nhà lãnh đạo hân hoan ở Munich trước sự hồi sinh của Phong trào 'bị giết' ở đó 10 năm trước — Vui mừng vì Steins."

Ullrich là tác giả của cuốn tiểu sử hai tập xuất sắc viết về Hitler. Trong cuốn “Eight Days in May” (‘Tám ngày tháng 5’, xuất bản năm 2021), tác giả viết về khoảng thời gian một tuần giữa thời điểm Hitler tự sát và Đức đầu hàng vô điều kiện. “Germany 1923,” được Jefferson Chase dịch sang tiếng Anh rõ ràng súc tích, kể lại một “năm then chốt” bắt đầu trong khủng hoảng và kết thúc, bất chấp mọi khó khăn, ở mức độ ổn định. Như nhà sử học Mark William Jones viết trong “1923”, cuốn sách kỷ niệm trăm năm khác được xuất bản mùa hè này, thì một trăm năm trước “dân chủ đã chiến thắng.”

Đó là một năm bắt đầu không mấy suôn sẻ, với sự kiện Pháp và Bỉ tiến vào khu vực công nghiệp Thung lũng Ruhr của Đức sau khi Đức không trả được tiền bồi thường chiến tranh cho Thế chiến I. Tình trạng chiếm đóng này khơi dậy khoảnh khắc hòa hợp giữa cánh tả và cánh hữu, từng có nhà công nghiệp nhận xét “Tất cả đang bắt đầu đoàn kết với nhau trong nỗi đau khổ và căm hờn chung.” Nhưng “làn sóng đoàn kết của người Đức” ấy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Thủ tướng Đức vào thời điểm đó đáp lại sự chiếm đóng bằng chính sách “phản kháng thụ động”, khuyến khích người Đức ở Thung lũng Ruhr không làm việc và in thêm tiền để trả lương cho họ khi các doanh nghiệp đóng cửa.

Nước Đức trước đó đã in tiền để trang trải cho cuộc thế chiến nước này không thể giành chiến thắng. Nhưng năm 1923 là thời điểm siêu lạm phát dường như cực kỳ nghiêm trọng khó kiểm soát. Tác giả Ullrich tận dụng có chủ đích ghi chép nhật ký của nhiều người để truyền tải những trải nghiệm đầy hoang mang của nhân dân khi giá cả tăng không phải theo ngày mà theo từng giờ. “Vấn đề tiền tệ ngày càng đen tối và không thể hiểu nổi,” nhà ngữ văn học và chuyên viết nhật ký Victor Klemperer viết vào tháng 2 năm 1923, trong tháng ấy tỷ giá hối đoái đạt mức kinh ngạc là 42.240 mác đổi một đô la. Đến tháng 6, con số này tăng gần gấp ba lần lên tới 114.250. Với mỗi số 0 thêm vào, một rào chắn tâm lý lại đổ vỡ. “Đồng mác đột ngột lao dốc,” nhà văn Stefan Zweig sau này nhớ lại, “không dừng lại cho đến khi đạt tới những con số điên rồ đến độ kinh ngạc, hàng triệu, hàng tỷ và hàng nghìn tỷ.”

Sunday, October 6, 2024

Nhiệm kỳ đầu tiên của Joe Biden và huyễn tưởng phim 'West Wing (Cánh Tây)' của nền Chính trị Mỹ

nguồn: New York Times,

biên dịch: Quỳnh Anh,


Trong cuốn “The Last Politician (Chính trị gia cuối cùng)”, tác giả Franklin Foer kể lại nửa đầu nhiệm kỳ tổng thống của Biden theo cách trình bày như loạt khoảnh khắc trên truyền hình nhằm truyền cảm hứng cho những người còn nghi ngờ và xoa dịu những người chỉ trích.

Lịch sử về chính quyền Biden sẽ được viết ra sao: là bước ngoặt nước Mỹ bắt đầu hồi phục hay là khoảng gián đoạn giữa những thời điểm bế tắc và khó khăn? Cuốn “The Last Politician” của Franklin Foer, kể về hai năm đầu cầm quyền của Biden, là bản nháp đầu tiên cho câu trả lời. Cuốn sách đầy kịch tính. Khủng hoảng nối tiếp khủng hoảng. Vấn đề là, từ lễ nhậm chức ảm đạm của Biden đến kết quả bất ngờ của cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, chúng ta đã biết trước câu chuyện sẽ thế nào.

Tác giả Foer, cây bút của tờ The Atlantic, khơi lại những thời điểm được nhắc tới trong những tiêu đề quen thuộc với nhiều câu trích dẫn mới mà các cố vấn và thành viên nội các kể cho ông chủ yếu về bối cảnh đằng sau, nhưng cần có người viết hiểu biết về những diễn biến khó diễn tả của lịch sử hơn tác giả Foer mới truyền tải được thật thuyết phục cơn lốc xoáy khi đó đã nhấn chìm chính quyền Biden. Trừ khi, như đôi khi tác giả dường như muốn ám chỉ, cảm giác có dàn dựng theo lối mòn mà cuốn sách của ông thể hiện là sự thật về chính quyền hiện tại.

Theo tác giả Foer, Biden rất thích “địa vị Nhà lãnh đạo của Thế giới tự do”. Ông đã chờ đợi đằng đẵng cả cuộc đời dài để có được cơ hội này. Một trong những khách mời tiết lộ nhiều hơn trong cuốn sách kể chuyện Phòng Bầu dục đã thực sự được sắp xếp lại để tạo sân khấu cho câu chuyện tổng thống của Biden. Bức chân dung khổng lồ Franklin Roosevelt giờ đây chiếm “vị trí danh dự” phía trên lò sưởi văn phòng. Nếu Trump làm tổng thống theo phong cách công ty đấu vật giải trí, thì mọi người sẽ có cảm giác thư ký và trợ lý của chính quyền Biden đang sống trong phiên bản làm lại của bộ phim “The West Wing (Cánh Tây)”.

Trong bối cảnh được sắp xếp kỹ càng này, ít nhất là theo lời kể của Foer, các sự kiện bên ngoài xen vào như những tập phim được giải quyết gọn gàng. Ở Trung Đông, “Bibi” trả đũa các cuộc tấn công bằng tên lửa của Hamas bằng cách tấn công Gaza và phá hủy một tòa nhà cao tầng là nơi đặt văn phòng của các nhà báo thuộc Al Jazeera và Associated Press. Trong vài ngày căng thẳng, Biden bằng năng lực cá nhân đã thành công xoa dịu người Israel. “Này, chúng ta chệch hướng rồi,” Biden nói với Bibi qua điện thoại. Kết quả là một lệnh ngừng bắn được cam kết. Vấn đề thực tế về tương lai của Palestine hầu như không được tính đến.

Sau đó là việc Nga đổ bộ vào Ukraine. Tác giả Foer nhận xét có phần rụt rè, khi Volodymyr Zelensky nhậm chức năm 2019, Biden có lẽ hiểu rõ bối cảnh chính trị Ukraine hơn là vị tổng thống mới của nước này, một kẻ nghiệp dư chính trị. Ngay từ đầu cuộc xung đột, Biden không muốn bị lôi kéo vào Thế chiến III và ông không ngại truyền đạt như vậy cho Zelensky. Tuy nhiên, với tác giả Foer, chiến lược chung không phải chủ đề chính. Điều quan trọng là thái độ thiếu biết ơn của Zelensky khi được tặng món quà đạn dược vũ khí và cách “Joe từ Scranton” khiến Kyiv phải nói lời cảm ơn nước Mỹ qua một dòng tweet.

Những ‘Chiếc túi’ này không chỉ nhét kẹo cao su và những đồng xu lẻ

nguồn: New York Times,

biên dịch: Giang Minh Anh; hiệu đính: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách rất phong cách “Intimate History of How We Keep Things Close” (Chi tiết về lịch sử cách thức chúng ta giữ đồ đạc sát mình), tác giả Hannah Carlson mở ra những quy luật đằng sau vấn đề ai có đặc quyền được giấu đồ của bản thân, và giấu ở đâu.

Bài điểm sách nghiên cứu văn hóa của Hannah Carlson về những chiếc túi bị trì hoãn khá lâu. Vì sao ư? Người điểm sách của bạn lại… làm mất chìa khóa rồi. À không, chìa khóa không được gắn AirTag.

Trước khi xác định được vị trí của chùm chìa khóa leng keng nhỏ bé này, vốn bị nhét vào ngăn bên cạnh chiếc lồng gia đình tôi từng dùng để vận chuyển mèo khi nhận nuôi hai chú mèo con nghịch ngợm, tôi cứ đoan chắc chìa khóa bị rơi ở bãi đậu xe của trung tâm cứu trợ động vật, cách hai giờ đi xe ra ngoại ô, và tôi rất lo lắng nghĩ phương cách thuyết phục các nhân viên cực kỳ bận rộn giúp tôi tìm lại.

Nhưng một người bạn có cô vợ luôn đánh mất đồ trấn an tôi chìa khóa nhất định sẽ được tìm thấy ở gần nhà tôi mà thôi. “Thường ở trong túi quần áo,” anh ấy nói với vẻ bình tĩnh tự nhiên của một người mặc quần áo chưa từng thiếu túi. Nói cách khác, một người đàn ông.

“Chiếc túi phân biệt giới tính” là nguyên lý trung tâm trong tác phẩm của Carlson, dù chủ đề này nghe có vẻ tầm thường như trò giễu nhại, như vở nhạc kịch về những chiếc ghế đẩu trong kiệt tác năm 1996 của Christopher Guest “Waiting for Guffman” (Chờ đợi Guffman). Hệt như phong bì và ống nghiệm, giá trị của những chiếc túi được xác định bằng không gian trống bên trong. Thiếu đi những món đồ, chúng chỉ còn là tiềm năng: một chiếc túi để trang trí, khá nhất thì cũng đẹp, còn tệ nhất thì gây khó chịu vô cùng. Những chiếc túi đang chờ đợi những món đồ.

Tác giả Carlson, giảng viên về lịch sử trang phục tại Trường Thiết kế Rhode Island, tỉ mỉ theo dõi quá trình những chiếc túi quần áo là — và ở mức độ nào đó vẫn vậy — một nghi thức trong văn hóa phương Tây dành cho riêng con trai. “Con bé có ĐỒ VẬT CẦN CẤT GIỮ, như mấy viên đá và siêu nhân Power Rangers,” tác giả trích lời một bà mẹ cầu xin các nhà sản xuất quần áo trong một dòng tweet lan truyền nhanh chóng về khuyết điểm trong trang phục của con gái cô. “Con bé đành phải bỏ đồ vào áo mình.”

Trong ít nhất 100 năm, nhiều tạp chí, tiểu thuyết và hội họa Mỹ mô tả với thái độ kinh ngạc trìu mến về những món đồ kỳ quặc các chàng trai trẻ có thể nhét vào trong túi quần mình theo cách của Tom Sawyer, từ những chiếc còi và con dao, đến viên bi và nắp chai, hoặc còn có thể là một con chuột hoặc con rùa còn sống. Nhưng không được cho bàn tay vào túi quần, các nhà chức trách la mắng, vì như thế sẽ để tay quá gần bộ phận sinh dục — dù rằng cử chỉ đó rốt cuộc lại trở thành biểu hiện “thái độ ngông và ngoài vòng pháp luật thật ngầu.”

Tôi lập tức nghĩ ngay đến James Dean và chiếc quần bò của anh ấy! Điều đó không nằm trong những trang sách này, trí tuệ và sâu sắc hơn nhiều so với những chuyên khảo thời trang thông thường bạn gặp; cũng không có thành viên của Hiệp hội Kẹo mút trong “The Wizard of Oz”, nhét ngón tay cái vào túi chiếc quần ống tiện dụng sau khi nhóm bạn nhảy nữ, Liên đoàn Bài hát ru, quay vòng trong chiếc váy xòe thanh tú.

Walt Whitman có ở đây, đảo lộn và chế giễu những người thời Victoria cứng nhắc với bức chân dung mang tính cách mạng trên trang bìa cho “Leaves of Grass (Lá Cỏ)”, tay đút túi một cách đầy thách thức. Robinson Crusoe của Daniel Defoe cũng vậy, bơi trong bộ quần áo nhồi đầy bánh quy. Không giống như chuột túi cái, phụ nữ (và các công dân hạng hai khác trong lịch sử) luôn gặp khó khăn hơn trong việc giữ túi đựng đồ gần sát người. Emily Dickinson là một trong số ít người tranh luận thắng người thợ may quần áo của mình để có được ngăn đựng bút chì và giấy. Cô ấy “có phòng riêng — và một chiếc túi đáng tin cậy,” Carlson viết.

Những sửa đổi trang phục như vậy rất hiếm ở Mỹ, ở nơi này hình dáng nữ tính trở nên bất khả xâm phạm đến mức ngay cả áo khoác của Quân đoàn Nữ trong Thế chiến II cũng không có đủ ngăn đựng đồ. “Có phải chỉ một bao thuốc lá cũng có khả năng làm hỏng hình dáng bộ ngực, khiến nó trông gồ ghề biến dạng, một dạng ẩn dụ cho nỗi sợ hãi lớn nhất của quân nhân — rằng sau khi gia nhập quân đội, phụ nữ sẽ không còn được coi là phụ nữ nữa?” tác giả đặt câu hỏi.

Tuy nhiên, chỉ một chút sửa đổi nhỏ thêm chiếc túi có thể tượng trưng cho sự tự do theo nghĩa đúng nhất. Tác giả kể về những nô lệ bỏ trốn may quần áo của mình theo cách giảm nguy cơ bị bắt lại: thêm “không gian tiện dụng hữu ích trong di chuyển đồng thời biến đổi căn bản một bộ đồ nô lệ tầm thường — áo khoác không túi — thành trang phục đáng trọng, hợp thời hơn.”

Một đất nước nơi 'Nhiều kẻ cần phải bị giết' là chính sách quốc gia

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách mới của Patricia Evangelista -- nhà báo Philippines kể lại cuộc điều tra của cô về chiến dịch giết người phi pháp dưới thời cựu Tổng thống Rodrigo Duterte.

Trước khi đọc cuốn “Some People Need Killing” (Nhiều kẻ cần phải bị giết), cuốn sách mới đầy sức thuyết phục của nhà báo Patricia Evangelista người Philippines, tôi cứ tưởng định nghĩa “sự cứu vớt” (salvage) rất đơn giản. Từ này xuất phát từ salvare, tiếng Latin có nghĩa là “cứu”. Bạn trục vớt cứu hàng hóa từ tàu thuyền bị đắm; bạn cứu đồ đạc khỏi đám cháy.

Nhưng từ “salvage” có nghĩa khác trong tiếng Anh của Philippine. Định nghĩa này bắt nguồn từ salvaje, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “hoang dã”. Từ điển tiếng Anh Oxford gọi hiện tượng ấy là “sự thay đổi ngữ nghĩa hoàn toàn so với nghĩa gốc tiếng Anh là 'giải cứu'”. Đây là một từ mang hai nghĩa gần như trái ngược nhau tùy vào ngữ cảnh: từ có thể có nghĩa ngược lại. “Salvage” ở Philippines có nghĩa là “bắt và xử tử (một kẻ bị tình nghi là tội phạm) mà không cần xét xử.”

Tác giả Evangelista gọi hiện tượng này làm hỏng ngôn ngữ — điều hóa ra lại thích hợp theo nghĩa khủng khiếp. Cuốn “Some People Need Killing” chủ yếu kể về những năm từ 2016 đến 2022, khi Rodrigo Duterte giữ cương vị tổng thống Philippines và theo đuổi chiến dịch giết người “bắt và xử tử,” hay giết người phi pháp — gọi tắt là EJK. Những vụ giết người như vậy xảy ra thường xuyên đến mức các nhà báo như Evangelista, khi đó đang làm phóng viên cho trang tin tức độc lập Rappler, lưu trữ thư mục trên máy tính sắp xếp không phải theo ngày mà theo giờ chết.

Cuốn sách lấy tựa đề từ một trong những nguồn tin của Evangelista, người cảnh vệ ủng hộ Duterte có tên Simon. “Tôi thực sự không phải là người xấu,” Simon nói với tác giả, giải thích rằng anh đang làm khu ổ chuột nơi anh sống an toàn hơn cho các con mình. “Tôi không xấu. Một số kẻ cần phải bị giết.” Họ không chỉ xứng đáng bị giết; họ cần bị giết. Trách nhiệm về những cái chết thuộc về chính người chết. “Ngôn ngữ không cho phép quy trách nhiệm cho ai,” Evangelista viết. “Việc xử tử trở thành thực hiện nghĩa vụ công việc.”

Tác giả Evangelista sinh năm 1985, vài tháng trước khi chế độ độc tài Marcos kết thúc và kỷ nguyên mới của nền dân chủ Philippines bắt đầu. Cô là quán quân trẻ môn diễn thuyết trước công chúng, rồi trở thành trợ lý sản xuất tại một kênh tin tức tiếng Anh và là người phụ trách chuyên mục cho một nhật báo, trước khi chuyển sang tập trung vào mảng báo chí điều tra. Sự việc hai phụ nữ trẻ mất tích năm 2006 xua tan ảo tưởng của tác giả về chính phủ nước mình. Những người phụ nữ ấy là người tổ chức cộng đồng. Cuối cùng, những lời khai tuyên thệ và mệnh lệnh nhiệm vụ ghép lại thành sự thật. Những người phụ nữ kia không chỉ đơn giản “mất tích”; họ bị biến mất. Họ bị quân đội bắt cóc và tra tấn.

Vị trữ quân dự bị không giữ gì cho mình

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách “George VI and Elizabeth: The Marriage That Saved the Monarchy (George VI và Elizabeth: Cuộc hôn nhân đã cứu chế độ quân chủ)” của tác giả Sally Bedell Smith khám phá một kỷ nguyên hoàn toàn khác trong truyền kỳ về gia tộc Windsor.

Lẽ ra lễ đăng quang sắp tới của Charles III cần phải mở ra một chương mới huy hoàng cho Nhà Windsor, thì sự kiện này thu hút truyền thông lá cải quan tâm quá mức khiến ngày càng nhiều người cùng thấy phát chán hoàng gia. Rốt cuộc, trong thời điểm hỗn loạn này, chẳng phải chúng ta có nhiều điều thiết thực cần suy nghĩ hơn là chút hào nhoáng hay nhỏ nhen, huy hoàng hay tai tiếng mới nhất, xuất phát từ chế độ quân chủ nổi tiếng nhất thế giới còn tồn tại hay sao? Và khi nhìn ngẫm những nhân vật chủ chốt trong câu chuyện này, họ thực sự dạy chúng ta bài học gì, ngoại trừ đặc quyền hoàng gia hiếm khi khiến những người đang có, khao khát có hoặc đánh mất nó trở thành người tốt hơn?


Cuốn sách mới nhất của tác giả Sally Bedell Smith, “George VI và Elizabeth,” đưa ra một bài học khác. Là tác giả của những tác phẩm như “Diana in Search of Herself” (Diana đi tìm chính mình), “Prince Charles” (Hoàng tử Charles) và “Elizabeth the Queen” (Nữ vương Elizabeth), Smith tránh xa vũng bùn Megxit (chỉ việc vợ chồng Hoàng tử Harry rời khỏi gia đình hoàng gia). Thay vào đó, tác giả có lựa chọn mới mẻ là tập trung vào “trữ quân dự bị” thời trước của nhà Windsor, ngài Bertie, Công tước xứ York — con trai thứ hai của George V — và người vợ gốc Scotland của ông, nhũ danh Elizabeth Bowes-Lyon. Cặp đôi này, phụ mẫu của nữ vương Elizabeth II, là đối trọng đầy cảm hứng, nếu không muốn nói là đối lập với con cháu ngày nay của họ. Ngai vàng mà họ bất ngờ ngồi lên lại giúp bộc lộ những phẩm chất đáng ngưỡng mộ nhất, thay vì những đặc điểm kém hơn: “phẩm chất về nghĩa vụ và phục vụ”, theo lời tác giả, “trong những hoàn cảnh khó khăn nhất”.

Mặc dù câu chuyện về cặp vợ chồng này trước đây đã được kể nhiều, nhưng vẫn mang đến điều mới mẻ mới trong bối cảnh báo chí ngày nay đưa tin không ngừng về thị phi gia tộc Windsor. Lời tường thuật sống động của tác giả Smith nhắc độc giả ghi nhớ ở thời khắc quyết định — bất kể tội lỗi lịch sử hay tội ác trường tồn của chính Đế quốc Anh — hoàng gia đã thể hiện sự lãnh đạo vị tha, kiên cường và lòng trắc ẩn đối với người dân của mình.

Chuyện tình của Bertie và Elizabeth có khởi đầu khó tin: Cô từ chối anh hai lần rồi cuối cùng mới đồng ý kết hôn. Nhưng Bertie vẫn kiên trì, và họ kết hôn năm 1923. Sự tận tâm sâu sắc và lâu dài họ dành cho nhau giúp hai người vượt qua nhiều khó khăn phải đối mặt trong suốt cuộc sống hôn nhân — bắt đầu từ cuộc khủng hoảng hiến pháp do Edward VIII thoái vị năm 1936.

Trong vương thất ông thường được gọi là David, sau này trở thành tay chơi lôi cuốn nhưng hư hỏng, yếu đuối với chính trị của Đức Quốc xã và phụ nữ đã có gia đình. Nhà vua cũng là người đứng đầu chính thức của Giáo hội Anh, ngay từ đầu rõ ràng tình trạng sắp ly hôn lần hai của Wallis Simpson khiến cô không đủ điều kiện kết hôn theo hiến pháp với nhà vua. Thế nhưng, David dành 326 ngày làm vua cố gắng phớt lờ, đi ngược lại hoặc phá vỡ quy tắc này, để rồi kết luận trong bài phát biểu tai tiếng trên đài phát thanh rằng ông không sẵn lòng hy sinh “người phụ nữ tôi yêu” vì nghĩa vụ. Quả thực, hàng chục năm được nuông chiều nhàn nhã với tư cách là người thừa kế hiển nhiên (một cận thần suy đoán “một số tế bào trong não của ông ấy chưa bao giờ trưởng thành”) dường như khiến ông không sẵn lòng hy sinh bất kỳ điều gì vì nghĩa vụ.

Tác giả Smith kể lại trong thời gian ngự ngai vàng ngắn ngủi của mình, David 42 tuổi, luôn chùn bước trước “những việc thường ngày đơn giản nhất của vương quyền — tiếp kiến quan chức, ký văn bản chính phủ trong hộp thư hằng ngày của ông” — và thực hiện những việc ấy rất vô tâm nếu ông có làm đi nữa. Ông phàn nàn về việc “luôn bị nhốt trong song sắt Cung điện Buckingham” và chỉ trích “sự vô nghĩa giả tạo” của các nghi lễ đính hôn hoàng gia. Wallis có vẻ giống như triệu chứng hơn là nguyên nhân khiến nhà vua bất mãn, mặc dù cô sẽ phải chịu nhiều trách nhiệm về việc ông thoái vị.

Việc vua Edward VIII từ bỏ ngai vàng gây ra làn sóng chấn động khắp Vương quốc Anh và Nhà Windsor. Nó giáng một đòn đặc biệt nặng nề vào Bertie, một người rất đỗi nghiêm túc và nhút nhát trong vương thất, người thiếu sức mạnh ngôi sao bẩm sinh và thái độ tự tin vô tư của anh trai mình, đồng thời là người sợ hãi viễn cảnh kế vị ông anh làm vua đến nỗi khi rốt cuộc biết mình phải lên ngôi đã gục xuống khóc nức nở trên vai mẹ. Vấn đề ông bị lắp bắp khi lo lắng, khiến việc phát biểu trước công chúng trở thành nỗi khiếp đảm, càng làm tăng thêm tình trạng lo âu của ông.

Tuy nhiên, trái ngược với anh trai, Bertie không coi những nghĩa vụ ở vị trí cao của ông là không thể tách rời khỏi những đặc quyền đi kèm. Ông cam kết miễn cưỡng nhưng dũng cảm, như viết trong thư gửi cho David, “đảm nhận ngai vàng bấp bênh và cố gắng khiến nó vững vàng trở lại”. Vợ ông — bề ngoài ngọt ngào nhưng cứng rắn — đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực này: người ủng hộ không mệt mỏi cho chồng, người bạn tâm giao chính của ông, và là pháo đài bảo vệ trạng thái bình thường trong một thế giới điên loạn.

Cam kết thực hiện nghĩa vụ của vua George VI mang tầm vóc anh hùng khi Thế chiến II bùng nổ, khi nước Anh đứng một mình ở châu Âu chống lại mối đe dọa của Đức Quốc xã. Giống như nhân dân mình, ông và vợ phải chịu đựng bao khó khăn của thời chiến: đánh bom, mất điện, thiếu lương thực và xa cách các con gái (được sơ tán đến vùng nông thôn tương đối an toàn ở Windsor). Nhờ sự hiện diện kiên cường ở London trong suốt giai đoạn Chiến tranh chớp nhoáng, cùng những chuyến viếng thăm không mệt mỏi cũng như thái độ đồng cảm rõ rệt đối với những cá nhân bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cỗ máy chiến tranh Đức, cặp đôi hoàng gia nhận được sự tôn trọng và tình cảm của nhân dân, những người mà theo một nhà báo, đã dần coi họ như người bạn “mà họ biết là đồng hành cùng với họ không chỉ trong trái tim mà còn cùng kinh qua bao nhọc nhằn.”

Về phần mình, nhà vua và hoàng hậu bất ngờ cảm thấy bản thân hoàn thiện hơn nhờ nỗ lực trợ giúp nhân dân và làm gương cho họ. Khi nghĩ về những người Anh bị Không quân Đức san bằng cả thị trấn, Elizabeth ngẫm rằng: “Nếu một người có thể giúp đỡ những con người quả cảm ấy thì mọi thứ đều đáng giá”. Mặc dù người ta cho rằng bà vẫn thầm đổ lỗi những căng thẳng từ gánh nặng vương quyền bất ngờ dẫn đến cái chết sớm của người chồng bà yêu dấu — và phẫn nộ với David và Wallis cho đến cuối những ngày dài của bà — phẩm chất vị tha này trở thành khẩu hiệu của con gái bà Elizabeth II và là chìa khóa cho sự nổi tiếng lâu dài của bà ấy. Con cháu của bà chọn tôn vinh hay bỏ qua di sản này đến mức độ nào vẫn còn là câu chuyện tương lai.

GEORGE VI AND ELIZABETH: The Marriage That Saved the Monarchy | By Sally Bedell Smith | Illustrated | 703 pp. | Random House | $40

Cuộc đấu tranh giữa hai cha con giúp giữ vững thành công cho IBM

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách “The greatest capitalist who ever lived (Nhà tư bản vĩ đại nhất từng sống)”, các tác giả Ralph Watson McElvenny và Marc Wortman kể lại những trận chiến mang đầy tính chất phức cảm Oedipus đã thúc đẩy thành tựu công nghệ của tập đoàn như thế nào trong những năm 1960 và nhiều hơn thế nữa.

Thomas J. Watson Jr., ngay từ khi còn trẻ, dường như được định sẵn sẽ thất bại. Sinh năm 1914, khi nhỏ ông là cậu bé nóng nảy và thường chán nản. Hàng xóm gọi cậu với cái tên “Tommy tồi tệ”. Cậu suýt không lấy được bằng tốt nghiệp trung học sau khi theo học ba trường khác nhau. Cha cậu, ông Watson Sr., người đứng đầu IBM, là người đàn ông độc đoán, khiến cậu con trai phải chịu đựng sự kết hợp điển hình của tình cảm xa cách và tính khí ác nghiệt. Watson con đáp lại bằng cách trở thành kẻ nổi loạn và lưu manh.

“Cậu ta nghịch lửa, bắn động vật ở đầm lầy gần đó, và ăn trộm đồ đạc của hàng xóm,” tác giả Ralph Watson McElvenny và Marc Wortman viết trong cuốn “The greatest capitalist who ever lived,” đây là cuốn sách tiểu sử mới hấp dẫn về Watson con. Anh nói rất rõ mình chưa bao giờ muốn làm việc tại công ty cha anh điều hành. Tuy nhiên, cuối cùng Watson con lại nắm quyền điều hành IBM, đánh bại người em trai ngoan ngoãn hơn, Dick Watson, giành được quyền kiểm soát đế chế của cha mình.

Đây không phải cuốn sách đầu tiên về IBM. Đây cũng không phải cuốn sách đầu tiên về cha con Watson Sr. và Jr. (Năm 1990, Watson con viết cuốn “Father, Son & Co. (Cha, con và công ty),” cuốn hồi ký ăn khách, khẳng định hai cha con ghét nhau đến mức nào, ít nhất là theo lời kể của người con trai.) Nhưng đây có lẽ là cuốn sách kịch tính nhất về IBM từng được xuất bản. Tác giả McElvenny, tình cờ cũng là cháu trai cả của ông Watson Jr., nắm nhiều bí mật “giấy tờ cá nhân và công ty” và, như phần chú thích cuối sách chỉ rõ một cách đầy bí ẩn, cả nhiều “nguồn tin gia đình”. Cùng với Wortman -- nhà sử học quân sự, ông biến các thành viên nhà Watson thành những nhân vật gần giống như kịch Shakespeare, như thể phim “Succession” (Kế nghiệp) lấy bối cảnh thời đại của phim “Mad Men” (Những gã điên). Trong một cảnh tượng khó quên, người em trai bị bỏ rơi Dick Watson, bị đẩy ra khỏi IBM năm 1970, uống quá chén trên máy bay, bắt đầu tấn công tiếp viên hàng không và cuối cùng bất tỉnh trong tình trạng “tay chân dang rộng khắp phòng chờ hạng nhất”. (Khi đó ông ấy là đại sứ Mỹ tại Pháp.)

Cuốn “The greatest capitalist who ever lived” kể về những thách thức trong quá trình kế thừa doanh nghiệp và gia đình, đề tài rất quan trọng vì bản thân IBM là cha đẻ của hầu hết ngành công nghiệp máy tính và công nghệ. Watson cha, “ông già”, là kiểu người quen thuộc với thời đại chúng ta: gã khổng lồ công nghệ điều hành tập đoàn lớn như một phần của chính bản thân mình. (Chiếc máy IBM đánh bại nhà vô địch “Jeopardy!” Ken Jennings mang tên ông.) Trong suốt bốn thập kỷ, IBM là lãnh địa của Watson cha. Tác giả McElvenny và Wortman viết: “Tập đoàn hoạt động hoàn toàn dựa vào ông.” Watson cha “đưa ra tất cả quyết định chiến lược và hầu hết các quyết định nhỏ” và “hầu như không ủy quyền cho ai”.

Với uy tín lâu năm, ông ấy thực sự quan tâm đến nhân viên và gia đình họ theo cách tạo nên lòng trung thành sâu sắc. Tuy nói vậy nhưng Watson cha đòi hỏi hoàn toàn thuần phục đồng thời ông có thể thất thường và tàn nhẫn. “Ông ấy coi bạn như người trong gia đình,” một nhân viên sau này kể lại. “Và ông ấy có thể đối xử ngược đãi với gia đình ấy.”

Mặc dù các nhà sáng lập công ty công nghệ ngày nay có thể là người thích áp đặt, nhưng Watson cha vượt lên trên tất cả ở phương diện truyền bá sự sùng bái cá nhân. Mark Zuckerberg có thể từng chi 21 tỷ đô la (và vẫn còn tiếp tục) vào thực tế ảo, nhưng anh ta vẫn chưa nhất quyết bắt buộc các văn phòng Facebook phải treo ảnh chân dung và những câu nói quan trọng nhất của mình theo kiểu Mao Trạch Đông. Theo như tôi biết, hiện cũng không ai ép nhân viên thường xuyên hát những bài tôn vinh sự vĩ đại của người lãnh đạo: “Thomas Watson là nguồn cảm hứng của chúng ta,/Lãnh đạo và linh hồn cho IBM huy hoàng của chúng ta/Chúng ta nguyện theo ông ở mọi quốc gia, /Chủ tịch và người yêu quý nhất của chúng ta.”

Từ những lá bài Tarot đến thiết kế tối giản, chúng ta không đừng được việc dự đoán tương lai

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Trong cuốn “A Century of Tomorrows” (“Một thế kỷ trong tương lai”), tác giả Glenn Adamson cho ch...