Search This Blog

Sunday, October 6, 2024

Những ‘Chiếc túi’ này không chỉ nhét kẹo cao su và những đồng xu lẻ

nguồn: New York Times,

biên dịch: Giang Minh Anh; hiệu đính: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách rất phong cách “Intimate History of How We Keep Things Close” (Chi tiết về lịch sử cách thức chúng ta giữ đồ đạc sát mình), tác giả Hannah Carlson mở ra những quy luật đằng sau vấn đề ai có đặc quyền được giấu đồ của bản thân, và giấu ở đâu.

Bài điểm sách nghiên cứu văn hóa của Hannah Carlson về những chiếc túi bị trì hoãn khá lâu. Vì sao ư? Người điểm sách của bạn lại… làm mất chìa khóa rồi. À không, chìa khóa không được gắn AirTag.

Trước khi xác định được vị trí của chùm chìa khóa leng keng nhỏ bé này, vốn bị nhét vào ngăn bên cạnh chiếc lồng gia đình tôi từng dùng để vận chuyển mèo khi nhận nuôi hai chú mèo con nghịch ngợm, tôi cứ đoan chắc chìa khóa bị rơi ở bãi đậu xe của trung tâm cứu trợ động vật, cách hai giờ đi xe ra ngoại ô, và tôi rất lo lắng nghĩ phương cách thuyết phục các nhân viên cực kỳ bận rộn giúp tôi tìm lại.

Nhưng một người bạn có cô vợ luôn đánh mất đồ trấn an tôi chìa khóa nhất định sẽ được tìm thấy ở gần nhà tôi mà thôi. “Thường ở trong túi quần áo,” anh ấy nói với vẻ bình tĩnh tự nhiên của một người mặc quần áo chưa từng thiếu túi. Nói cách khác, một người đàn ông.

“Chiếc túi phân biệt giới tính” là nguyên lý trung tâm trong tác phẩm của Carlson, dù chủ đề này nghe có vẻ tầm thường như trò giễu nhại, như vở nhạc kịch về những chiếc ghế đẩu trong kiệt tác năm 1996 của Christopher Guest “Waiting for Guffman” (Chờ đợi Guffman). Hệt như phong bì và ống nghiệm, giá trị của những chiếc túi được xác định bằng không gian trống bên trong. Thiếu đi những món đồ, chúng chỉ còn là tiềm năng: một chiếc túi để trang trí, khá nhất thì cũng đẹp, còn tệ nhất thì gây khó chịu vô cùng. Những chiếc túi đang chờ đợi những món đồ.

Tác giả Carlson, giảng viên về lịch sử trang phục tại Trường Thiết kế Rhode Island, tỉ mỉ theo dõi quá trình những chiếc túi quần áo là — và ở mức độ nào đó vẫn vậy — một nghi thức trong văn hóa phương Tây dành cho riêng con trai. “Con bé có ĐỒ VẬT CẦN CẤT GIỮ, như mấy viên đá và siêu nhân Power Rangers,” tác giả trích lời một bà mẹ cầu xin các nhà sản xuất quần áo trong một dòng tweet lan truyền nhanh chóng về khuyết điểm trong trang phục của con gái cô. “Con bé đành phải bỏ đồ vào áo mình.”

Trong ít nhất 100 năm, nhiều tạp chí, tiểu thuyết và hội họa Mỹ mô tả với thái độ kinh ngạc trìu mến về những món đồ kỳ quặc các chàng trai trẻ có thể nhét vào trong túi quần mình theo cách của Tom Sawyer, từ những chiếc còi và con dao, đến viên bi và nắp chai, hoặc còn có thể là một con chuột hoặc con rùa còn sống. Nhưng không được cho bàn tay vào túi quần, các nhà chức trách la mắng, vì như thế sẽ để tay quá gần bộ phận sinh dục — dù rằng cử chỉ đó rốt cuộc lại trở thành biểu hiện “thái độ ngông và ngoài vòng pháp luật thật ngầu.”

Tôi lập tức nghĩ ngay đến James Dean và chiếc quần bò của anh ấy! Điều đó không nằm trong những trang sách này, trí tuệ và sâu sắc hơn nhiều so với những chuyên khảo thời trang thông thường bạn gặp; cũng không có thành viên của Hiệp hội Kẹo mút trong “The Wizard of Oz”, nhét ngón tay cái vào túi chiếc quần ống tiện dụng sau khi nhóm bạn nhảy nữ, Liên đoàn Bài hát ru, quay vòng trong chiếc váy xòe thanh tú.

Walt Whitman có ở đây, đảo lộn và chế giễu những người thời Victoria cứng nhắc với bức chân dung mang tính cách mạng trên trang bìa cho “Leaves of Grass (Lá Cỏ)”, tay đút túi một cách đầy thách thức. Robinson Crusoe của Daniel Defoe cũng vậy, bơi trong bộ quần áo nhồi đầy bánh quy. Không giống như chuột túi cái, phụ nữ (và các công dân hạng hai khác trong lịch sử) luôn gặp khó khăn hơn trong việc giữ túi đựng đồ gần sát người. Emily Dickinson là một trong số ít người tranh luận thắng người thợ may quần áo của mình để có được ngăn đựng bút chì và giấy. Cô ấy “có phòng riêng — và một chiếc túi đáng tin cậy,” Carlson viết.

Những sửa đổi trang phục như vậy rất hiếm ở Mỹ, ở nơi này hình dáng nữ tính trở nên bất khả xâm phạm đến mức ngay cả áo khoác của Quân đoàn Nữ trong Thế chiến II cũng không có đủ ngăn đựng đồ. “Có phải chỉ một bao thuốc lá cũng có khả năng làm hỏng hình dáng bộ ngực, khiến nó trông gồ ghề biến dạng, một dạng ẩn dụ cho nỗi sợ hãi lớn nhất của quân nhân — rằng sau khi gia nhập quân đội, phụ nữ sẽ không còn được coi là phụ nữ nữa?” tác giả đặt câu hỏi.

Tuy nhiên, chỉ một chút sửa đổi nhỏ thêm chiếc túi có thể tượng trưng cho sự tự do theo nghĩa đúng nhất. Tác giả kể về những nô lệ bỏ trốn may quần áo của mình theo cách giảm nguy cơ bị bắt lại: thêm “không gian tiện dụng hữu ích trong di chuyển đồng thời biến đổi căn bản một bộ đồ nô lệ tầm thường — áo khoác không túi — thành trang phục đáng trọng, hợp thời hơn.”

Một đất nước nơi 'Nhiều kẻ cần phải bị giết' là chính sách quốc gia

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách mới của Patricia Evangelista -- nhà báo Philippines kể lại cuộc điều tra của cô về chiến dịch giết người phi pháp dưới thời cựu Tổng thống Rodrigo Duterte.

Trước khi đọc cuốn “Some People Need Killing” (Nhiều kẻ cần phải bị giết), cuốn sách mới đầy sức thuyết phục của nhà báo Patricia Evangelista người Philippines, tôi cứ tưởng định nghĩa “sự cứu vớt” (salvage) rất đơn giản. Từ này xuất phát từ salvare, tiếng Latin có nghĩa là “cứu”. Bạn trục vớt cứu hàng hóa từ tàu thuyền bị đắm; bạn cứu đồ đạc khỏi đám cháy.

Nhưng từ “salvage” có nghĩa khác trong tiếng Anh của Philippine. Định nghĩa này bắt nguồn từ salvaje, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “hoang dã”. Từ điển tiếng Anh Oxford gọi hiện tượng ấy là “sự thay đổi ngữ nghĩa hoàn toàn so với nghĩa gốc tiếng Anh là 'giải cứu'”. Đây là một từ mang hai nghĩa gần như trái ngược nhau tùy vào ngữ cảnh: từ có thể có nghĩa ngược lại. “Salvage” ở Philippines có nghĩa là “bắt và xử tử (một kẻ bị tình nghi là tội phạm) mà không cần xét xử.”

Tác giả Evangelista gọi hiện tượng này làm hỏng ngôn ngữ — điều hóa ra lại thích hợp theo nghĩa khủng khiếp. Cuốn “Some People Need Killing” chủ yếu kể về những năm từ 2016 đến 2022, khi Rodrigo Duterte giữ cương vị tổng thống Philippines và theo đuổi chiến dịch giết người “bắt và xử tử,” hay giết người phi pháp — gọi tắt là EJK. Những vụ giết người như vậy xảy ra thường xuyên đến mức các nhà báo như Evangelista, khi đó đang làm phóng viên cho trang tin tức độc lập Rappler, lưu trữ thư mục trên máy tính sắp xếp không phải theo ngày mà theo giờ chết.

Cuốn sách lấy tựa đề từ một trong những nguồn tin của Evangelista, người cảnh vệ ủng hộ Duterte có tên Simon. “Tôi thực sự không phải là người xấu,” Simon nói với tác giả, giải thích rằng anh đang làm khu ổ chuột nơi anh sống an toàn hơn cho các con mình. “Tôi không xấu. Một số kẻ cần phải bị giết.” Họ không chỉ xứng đáng bị giết; họ cần bị giết. Trách nhiệm về những cái chết thuộc về chính người chết. “Ngôn ngữ không cho phép quy trách nhiệm cho ai,” Evangelista viết. “Việc xử tử trở thành thực hiện nghĩa vụ công việc.”

Tác giả Evangelista sinh năm 1985, vài tháng trước khi chế độ độc tài Marcos kết thúc và kỷ nguyên mới của nền dân chủ Philippines bắt đầu. Cô là quán quân trẻ môn diễn thuyết trước công chúng, rồi trở thành trợ lý sản xuất tại một kênh tin tức tiếng Anh và là người phụ trách chuyên mục cho một nhật báo, trước khi chuyển sang tập trung vào mảng báo chí điều tra. Sự việc hai phụ nữ trẻ mất tích năm 2006 xua tan ảo tưởng của tác giả về chính phủ nước mình. Những người phụ nữ ấy là người tổ chức cộng đồng. Cuối cùng, những lời khai tuyên thệ và mệnh lệnh nhiệm vụ ghép lại thành sự thật. Những người phụ nữ kia không chỉ đơn giản “mất tích”; họ bị biến mất. Họ bị quân đội bắt cóc và tra tấn.

Vị trữ quân dự bị không giữ gì cho mình

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách “George VI and Elizabeth: The Marriage That Saved the Monarchy (George VI và Elizabeth: Cuộc hôn nhân đã cứu chế độ quân chủ)” của tác giả Sally Bedell Smith khám phá một kỷ nguyên hoàn toàn khác trong truyền kỳ về gia tộc Windsor.

Lẽ ra lễ đăng quang sắp tới của Charles III cần phải mở ra một chương mới huy hoàng cho Nhà Windsor, thì sự kiện này thu hút truyền thông lá cải quan tâm quá mức khiến ngày càng nhiều người cùng thấy phát chán hoàng gia. Rốt cuộc, trong thời điểm hỗn loạn này, chẳng phải chúng ta có nhiều điều thiết thực cần suy nghĩ hơn là chút hào nhoáng hay nhỏ nhen, huy hoàng hay tai tiếng mới nhất, xuất phát từ chế độ quân chủ nổi tiếng nhất thế giới còn tồn tại hay sao? Và khi nhìn ngẫm những nhân vật chủ chốt trong câu chuyện này, họ thực sự dạy chúng ta bài học gì, ngoại trừ đặc quyền hoàng gia hiếm khi khiến những người đang có, khao khát có hoặc đánh mất nó trở thành người tốt hơn?


Cuốn sách mới nhất của tác giả Sally Bedell Smith, “George VI và Elizabeth,” đưa ra một bài học khác. Là tác giả của những tác phẩm như “Diana in Search of Herself” (Diana đi tìm chính mình), “Prince Charles” (Hoàng tử Charles) và “Elizabeth the Queen” (Nữ vương Elizabeth), Smith tránh xa vũng bùn Megxit (chỉ việc vợ chồng Hoàng tử Harry rời khỏi gia đình hoàng gia). Thay vào đó, tác giả có lựa chọn mới mẻ là tập trung vào “trữ quân dự bị” thời trước của nhà Windsor, ngài Bertie, Công tước xứ York — con trai thứ hai của George V — và người vợ gốc Scotland của ông, nhũ danh Elizabeth Bowes-Lyon. Cặp đôi này, phụ mẫu của nữ vương Elizabeth II, là đối trọng đầy cảm hứng, nếu không muốn nói là đối lập với con cháu ngày nay của họ. Ngai vàng mà họ bất ngờ ngồi lên lại giúp bộc lộ những phẩm chất đáng ngưỡng mộ nhất, thay vì những đặc điểm kém hơn: “phẩm chất về nghĩa vụ và phục vụ”, theo lời tác giả, “trong những hoàn cảnh khó khăn nhất”.

Mặc dù câu chuyện về cặp vợ chồng này trước đây đã được kể nhiều, nhưng vẫn mang đến điều mới mẻ mới trong bối cảnh báo chí ngày nay đưa tin không ngừng về thị phi gia tộc Windsor. Lời tường thuật sống động của tác giả Smith nhắc độc giả ghi nhớ ở thời khắc quyết định — bất kể tội lỗi lịch sử hay tội ác trường tồn của chính Đế quốc Anh — hoàng gia đã thể hiện sự lãnh đạo vị tha, kiên cường và lòng trắc ẩn đối với người dân của mình.

Chuyện tình của Bertie và Elizabeth có khởi đầu khó tin: Cô từ chối anh hai lần rồi cuối cùng mới đồng ý kết hôn. Nhưng Bertie vẫn kiên trì, và họ kết hôn năm 1923. Sự tận tâm sâu sắc và lâu dài họ dành cho nhau giúp hai người vượt qua nhiều khó khăn phải đối mặt trong suốt cuộc sống hôn nhân — bắt đầu từ cuộc khủng hoảng hiến pháp do Edward VIII thoái vị năm 1936.

Trong vương thất ông thường được gọi là David, sau này trở thành tay chơi lôi cuốn nhưng hư hỏng, yếu đuối với chính trị của Đức Quốc xã và phụ nữ đã có gia đình. Nhà vua cũng là người đứng đầu chính thức của Giáo hội Anh, ngay từ đầu rõ ràng tình trạng sắp ly hôn lần hai của Wallis Simpson khiến cô không đủ điều kiện kết hôn theo hiến pháp với nhà vua. Thế nhưng, David dành 326 ngày làm vua cố gắng phớt lờ, đi ngược lại hoặc phá vỡ quy tắc này, để rồi kết luận trong bài phát biểu tai tiếng trên đài phát thanh rằng ông không sẵn lòng hy sinh “người phụ nữ tôi yêu” vì nghĩa vụ. Quả thực, hàng chục năm được nuông chiều nhàn nhã với tư cách là người thừa kế hiển nhiên (một cận thần suy đoán “một số tế bào trong não của ông ấy chưa bao giờ trưởng thành”) dường như khiến ông không sẵn lòng hy sinh bất kỳ điều gì vì nghĩa vụ.

Tác giả Smith kể lại trong thời gian ngự ngai vàng ngắn ngủi của mình, David 42 tuổi, luôn chùn bước trước “những việc thường ngày đơn giản nhất của vương quyền — tiếp kiến quan chức, ký văn bản chính phủ trong hộp thư hằng ngày của ông” — và thực hiện những việc ấy rất vô tâm nếu ông có làm đi nữa. Ông phàn nàn về việc “luôn bị nhốt trong song sắt Cung điện Buckingham” và chỉ trích “sự vô nghĩa giả tạo” của các nghi lễ đính hôn hoàng gia. Wallis có vẻ giống như triệu chứng hơn là nguyên nhân khiến nhà vua bất mãn, mặc dù cô sẽ phải chịu nhiều trách nhiệm về việc ông thoái vị.

Việc vua Edward VIII từ bỏ ngai vàng gây ra làn sóng chấn động khắp Vương quốc Anh và Nhà Windsor. Nó giáng một đòn đặc biệt nặng nề vào Bertie, một người rất đỗi nghiêm túc và nhút nhát trong vương thất, người thiếu sức mạnh ngôi sao bẩm sinh và thái độ tự tin vô tư của anh trai mình, đồng thời là người sợ hãi viễn cảnh kế vị ông anh làm vua đến nỗi khi rốt cuộc biết mình phải lên ngôi đã gục xuống khóc nức nở trên vai mẹ. Vấn đề ông bị lắp bắp khi lo lắng, khiến việc phát biểu trước công chúng trở thành nỗi khiếp đảm, càng làm tăng thêm tình trạng lo âu của ông.

Tuy nhiên, trái ngược với anh trai, Bertie không coi những nghĩa vụ ở vị trí cao của ông là không thể tách rời khỏi những đặc quyền đi kèm. Ông cam kết miễn cưỡng nhưng dũng cảm, như viết trong thư gửi cho David, “đảm nhận ngai vàng bấp bênh và cố gắng khiến nó vững vàng trở lại”. Vợ ông — bề ngoài ngọt ngào nhưng cứng rắn — đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực này: người ủng hộ không mệt mỏi cho chồng, người bạn tâm giao chính của ông, và là pháo đài bảo vệ trạng thái bình thường trong một thế giới điên loạn.

Cam kết thực hiện nghĩa vụ của vua George VI mang tầm vóc anh hùng khi Thế chiến II bùng nổ, khi nước Anh đứng một mình ở châu Âu chống lại mối đe dọa của Đức Quốc xã. Giống như nhân dân mình, ông và vợ phải chịu đựng bao khó khăn của thời chiến: đánh bom, mất điện, thiếu lương thực và xa cách các con gái (được sơ tán đến vùng nông thôn tương đối an toàn ở Windsor). Nhờ sự hiện diện kiên cường ở London trong suốt giai đoạn Chiến tranh chớp nhoáng, cùng những chuyến viếng thăm không mệt mỏi cũng như thái độ đồng cảm rõ rệt đối với những cá nhân bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cỗ máy chiến tranh Đức, cặp đôi hoàng gia nhận được sự tôn trọng và tình cảm của nhân dân, những người mà theo một nhà báo, đã dần coi họ như người bạn “mà họ biết là đồng hành cùng với họ không chỉ trong trái tim mà còn cùng kinh qua bao nhọc nhằn.”

Về phần mình, nhà vua và hoàng hậu bất ngờ cảm thấy bản thân hoàn thiện hơn nhờ nỗ lực trợ giúp nhân dân và làm gương cho họ. Khi nghĩ về những người Anh bị Không quân Đức san bằng cả thị trấn, Elizabeth ngẫm rằng: “Nếu một người có thể giúp đỡ những con người quả cảm ấy thì mọi thứ đều đáng giá”. Mặc dù người ta cho rằng bà vẫn thầm đổ lỗi những căng thẳng từ gánh nặng vương quyền bất ngờ dẫn đến cái chết sớm của người chồng bà yêu dấu — và phẫn nộ với David và Wallis cho đến cuối những ngày dài của bà — phẩm chất vị tha này trở thành khẩu hiệu của con gái bà Elizabeth II và là chìa khóa cho sự nổi tiếng lâu dài của bà ấy. Con cháu của bà chọn tôn vinh hay bỏ qua di sản này đến mức độ nào vẫn còn là câu chuyện tương lai.

GEORGE VI AND ELIZABETH: The Marriage That Saved the Monarchy | By Sally Bedell Smith | Illustrated | 703 pp. | Random House | $40

Cuộc đấu tranh giữa hai cha con giúp giữ vững thành công cho IBM

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách “The greatest capitalist who ever lived (Nhà tư bản vĩ đại nhất từng sống)”, các tác giả Ralph Watson McElvenny và Marc Wortman kể lại những trận chiến mang đầy tính chất phức cảm Oedipus đã thúc đẩy thành tựu công nghệ của tập đoàn như thế nào trong những năm 1960 và nhiều hơn thế nữa.

Thomas J. Watson Jr., ngay từ khi còn trẻ, dường như được định sẵn sẽ thất bại. Sinh năm 1914, khi nhỏ ông là cậu bé nóng nảy và thường chán nản. Hàng xóm gọi cậu với cái tên “Tommy tồi tệ”. Cậu suýt không lấy được bằng tốt nghiệp trung học sau khi theo học ba trường khác nhau. Cha cậu, ông Watson Sr., người đứng đầu IBM, là người đàn ông độc đoán, khiến cậu con trai phải chịu đựng sự kết hợp điển hình của tình cảm xa cách và tính khí ác nghiệt. Watson con đáp lại bằng cách trở thành kẻ nổi loạn và lưu manh.

“Cậu ta nghịch lửa, bắn động vật ở đầm lầy gần đó, và ăn trộm đồ đạc của hàng xóm,” tác giả Ralph Watson McElvenny và Marc Wortman viết trong cuốn “The greatest capitalist who ever lived,” đây là cuốn sách tiểu sử mới hấp dẫn về Watson con. Anh nói rất rõ mình chưa bao giờ muốn làm việc tại công ty cha anh điều hành. Tuy nhiên, cuối cùng Watson con lại nắm quyền điều hành IBM, đánh bại người em trai ngoan ngoãn hơn, Dick Watson, giành được quyền kiểm soát đế chế của cha mình.

Đây không phải cuốn sách đầu tiên về IBM. Đây cũng không phải cuốn sách đầu tiên về cha con Watson Sr. và Jr. (Năm 1990, Watson con viết cuốn “Father, Son & Co. (Cha, con và công ty),” cuốn hồi ký ăn khách, khẳng định hai cha con ghét nhau đến mức nào, ít nhất là theo lời kể của người con trai.) Nhưng đây có lẽ là cuốn sách kịch tính nhất về IBM từng được xuất bản. Tác giả McElvenny, tình cờ cũng là cháu trai cả của ông Watson Jr., nắm nhiều bí mật “giấy tờ cá nhân và công ty” và, như phần chú thích cuối sách chỉ rõ một cách đầy bí ẩn, cả nhiều “nguồn tin gia đình”. Cùng với Wortman -- nhà sử học quân sự, ông biến các thành viên nhà Watson thành những nhân vật gần giống như kịch Shakespeare, như thể phim “Succession” (Kế nghiệp) lấy bối cảnh thời đại của phim “Mad Men” (Những gã điên). Trong một cảnh tượng khó quên, người em trai bị bỏ rơi Dick Watson, bị đẩy ra khỏi IBM năm 1970, uống quá chén trên máy bay, bắt đầu tấn công tiếp viên hàng không và cuối cùng bất tỉnh trong tình trạng “tay chân dang rộng khắp phòng chờ hạng nhất”. (Khi đó ông ấy là đại sứ Mỹ tại Pháp.)

Cuốn “The greatest capitalist who ever lived” kể về những thách thức trong quá trình kế thừa doanh nghiệp và gia đình, đề tài rất quan trọng vì bản thân IBM là cha đẻ của hầu hết ngành công nghiệp máy tính và công nghệ. Watson cha, “ông già”, là kiểu người quen thuộc với thời đại chúng ta: gã khổng lồ công nghệ điều hành tập đoàn lớn như một phần của chính bản thân mình. (Chiếc máy IBM đánh bại nhà vô địch “Jeopardy!” Ken Jennings mang tên ông.) Trong suốt bốn thập kỷ, IBM là lãnh địa của Watson cha. Tác giả McElvenny và Wortman viết: “Tập đoàn hoạt động hoàn toàn dựa vào ông.” Watson cha “đưa ra tất cả quyết định chiến lược và hầu hết các quyết định nhỏ” và “hầu như không ủy quyền cho ai”.

Với uy tín lâu năm, ông ấy thực sự quan tâm đến nhân viên và gia đình họ theo cách tạo nên lòng trung thành sâu sắc. Tuy nói vậy nhưng Watson cha đòi hỏi hoàn toàn thuần phục đồng thời ông có thể thất thường và tàn nhẫn. “Ông ấy coi bạn như người trong gia đình,” một nhân viên sau này kể lại. “Và ông ấy có thể đối xử ngược đãi với gia đình ấy.”

Mặc dù các nhà sáng lập công ty công nghệ ngày nay có thể là người thích áp đặt, nhưng Watson cha vượt lên trên tất cả ở phương diện truyền bá sự sùng bái cá nhân. Mark Zuckerberg có thể từng chi 21 tỷ đô la (và vẫn còn tiếp tục) vào thực tế ảo, nhưng anh ta vẫn chưa nhất quyết bắt buộc các văn phòng Facebook phải treo ảnh chân dung và những câu nói quan trọng nhất của mình theo kiểu Mao Trạch Đông. Theo như tôi biết, hiện cũng không ai ép nhân viên thường xuyên hát những bài tôn vinh sự vĩ đại của người lãnh đạo: “Thomas Watson là nguồn cảm hứng của chúng ta,/Lãnh đạo và linh hồn cho IBM huy hoàng của chúng ta/Chúng ta nguyện theo ông ở mọi quốc gia, /Chủ tịch và người yêu quý nhất của chúng ta.”

Cánh hoa hồng và bộ não con công: Điều kiện trở thành 'Hoàng đế La Mã'

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Học giả Hy Lạp và La Mã cổ đại Mary Beard nghiên cứu những thái quá và tẻ nhạt trong việc cai trị đế quốc, nhặt ra sự thật giữa những chuyện tầm phào và hoang đường.

Nếu có thể tin được mạng xã hội, ta sẽ thấy đàn ông không cách nào ngừng nghĩ về Đế chế La Mã, đặc biệt là các yếu tố mang tính “người đàn ông Alpha”. Bất kỳ ai say mê những điều như thế cũng nên tìm đọc cuốn “Emperor of Rome” (Hoàng đế Lã Mã), cuốn sách mới uyên bác và thú vị của vị học giả đáng nể chuyên nghiên cứu Hy Lạp và La Mã cổ đại và cũng là nhà nữ quyền Mary Beard.

Tác giả Beard, trước đó có cuốn “SPQR” và “The Fires of Vesuvius” (Ngọn lửa Vesuvius), chỉ ra vai trò rõ ràng của phụ nữ trong lịch sử các vị hoàng đế được truyền lại qua nhiều thời đại. Lâu dài nhất là “hình mẫu người phụ nữ đầy mưu mô”, người (được cho là) thao túng những người đàn ông quyền lực thực hiện mệnh lệnh của mình (hoặc nếu không thì đầu độc họ khi họ không làm theo). Tác giả Beard, trích dẫn những ví dụ gần đây hơn về những phụ nữ bị lên án do hành vi của chồng, có nhận xét việc “đổ lỗi cho vợ” vẫn là mốt.

Cuốn “Emperor of Rome ” bắt đầu với Julius Caesar, nhân vật bản lề nối giữa Cộng hòa La Mã và Đế chế La Mã, và kết thúc gần ba thế kỷ sau với Alexander Severus, cái chết của ông năm 235 kéo theo các cuộc nội chiến và triều đại ngắn ngủi. Kế vị Alexander là Maximinus Thrax, một kẻ mù chữ — hoặc có lẽ ông chỉ bị người ta nói là mù chữ, tác giả Beard viết, đặt ra khả năng lời nói này “có thể là lời nhục mạ có chủ đích”.

Trong cuốn sách, tác giả thỉnh thoảng dừng lại lưu ý độc giả những gì chúng ta cho là mình biết về các hoàng đế La Mã thường liên quan rất nhiều đến những tuyên truyền tô điểm hoặc cố tình bôi đen (hoặc hủy hoại) danh tiếng. Những vị hoàng đế “tốt” luôn khôn ngoan, nhân hậu, thận trọng và rộng lượng, trong khi những vị “xấu” thì đần độn, ghê tởm, suy đồi và keo kiệt. Caligula có thực sự định bổ nhiệm con ngựa của ông vào thượng viện hay không? Elagabalus có thực sự lên kế hoạch sát hại những vị khách dự tiệc của mình bằng cách thả cánh hoa hồng từ trần nhà xuống hay không? Tác giả Beard khuyến khích chúng ta nên hoài nghi về tất cả “những giai thoại phi lý”, ngay cả khi tác giả khẳng định việc bôi xấu như vậy có thể cho chúng ta biết điều gì đó về cách thức hoạt động của quyền lực.

Bên cạnh đó, những câu chuyện kỳ lạ không thể phủ nhận là điều khiến người ta ghi nhớ mãi, và tác giả Beard, vốn là người kể chuyện tài năng, cảm thấy “những câu chuyện phiếm thời cổ đại” khó mà cưỡng lại được. Những câu chuyện ấy cũng giúp tác giả có thêm thời gian theo đuổi đề tài theo phân loại chủ đề thay vì theo trình tự thời gian, không những chỉ ra sự khác biệt giữa các hoàng đế mà còn cả những điểm tương đồng. Vấn đề trọng tâm là người thừa kế, và bởi Đế chế La Mã không phải hệ thống cha truyền con nối nghiêm ngặt — hoàng đế có thể nhận người ông ta muốn làm người kế vị — "sự linh hoạt" này cũng đồng nghĩa "có cuộc chiến tiềm tàng mỗi khi quyền lực đổi chủ", tác giả Beard viết. “Đế chế La Mã là một thế giới giết chóc” trong đó tàn sát là một phương pháp giải quyết vấn đề.

Vùng đất đầy nắng cho những con người bất minh

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách “Once Upon a Time World” (Thế giới ngày xửa ngày xưa) của Jonathan Miles là cuộc phiêu lưu quay cuồng thú vị đi qua vùng đất là nàng thơ quyến rũ nhất thế giới: vùng Riviera nước Pháp.

Đọc câu chuyện ly kỳ về những biến đổi của vùng Riviera nước Pháp trong suốt hai thiên niên kỷ chẳng khác nào ngồi ghế phụ cạnh lái với một tay đua ở giải Monaco Grand Prix.

Với mỗi vòng lặp thời gian, người quan sát sẽ thay đổi — từ nhà tự nhiên học và các vị vua cho đến vũ công, nhà văn, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ, triết gia, chính khách, ban nhạc Rolling Stones và khách du lịch. Bối cảnh thay đổi theo mạch kể, gợi lại những giấc mơ từng được ghép vào khung cảnh hiểm trở nơi đây: lâu đài, sòng bạc, du thuyền.

Tại thị trấn La Turbie, Tượng đài chiến thắng dãy Alps, cao 35 mét, được dựng lên năm 6 TCN để kỷ niệm chiến thắng của Hoàng đế Augustus khi chinh phục dân địa phương. (Trong cuộc rượt đuổi bằng ô tô trong bộ phim “To Catch a Thief” của Hitchcock, Cary Grant và Grace Kelly lướt qua quá nhanh không kịp chiêm ngưỡng cho kỹ tượng đài.) Các tượng đài khác ít được người ta thấy hơn, và nhà sử học văn hóa người Anh Jonathan Miles kể lại câu chuyện của những tượng đài ấy.

Hiện tượng ‘Lan truyền nhanh chóng’ (Viral) bắt đầu như thế nào?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Giang Minh Anh; hiệu đính: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách “Traffic” (‘’Lưu lượng truy cập’’), nhà báo Ben Smith kể chuyện những người tiên phong trong lĩnh vực truyền thông có sức lan tỏa trên Internet, những người sở hữu bộ óc thiên tài, tham vọng mãnh liệt, và tinh thần thử nghiệm đạo đức.

Ngày 13.2.2014, trên mạng internet lan truyền bài trắc nghiệm BuzzFeed mọi người thường chơi lúc nhàm chán ở công sở: “Bạn thực sự thuộc về bang nào?”

Từ “thực sự” dường như hứa hẹn câu trả lời chắc chắn và đáng tin cậy dựa trên dữ liệu.

Chắc bạn còn nhớ những bài trắc nghiệm này như thế nào. Bạn chọn bài hát nhịp điệu tưng bừng (“YMCA”), hoặc chọn phẩm chất của người yêu lý tưởng (“ham ăn”) và úm ba la: mái ấm tinh thần của bạn. Những bài trắc nghiệm này khá giải trí, và thời gian đầu, người ta chia sẻ nhau như truyền tay điếu thuốc lá hay que pháo hoa.

Nhưng riêng bài trắc nghiệm này có chút vấn đề. Rất nhiều người ra kết quả Wyoming — thậm chí còn nhiều hơn cả số người thực sự sinh sống tại Wyoming — và sự kiện này thú vị đến nỗi mọi người đổ xô lên Facebook phản đối. Sau đó, theo lời Ben Smith kể lại trong cuốn sách hấp dẫn và hồi hộp, “Traffic: Genius, Rivalry, and Delusion in the Billion-Dollar Race to Go Viral” (Lưu lượng truy cập: Trí tuệ, Ganh đua và Ảo tưởng trong cuộc đua hàng tỷ đô la để lan truyền nhanh chóng), đội ngũ BuzzFeed phát hiện ra điều làm thay đổi truyền thông mãi m —

À thì, không phải mãi mãi. Dù sao, đây là Ben Smith mà. Là con người của truyền thông, tính tình thích châm biếm bẩm sinh và do nghề nghiệp đòi hỏi. Đồng sáng lập Semafor, cựu nhà báo chuyên mục truyền thông của tờ New York Times, từng là tổng biên tập của BuzzFeed News. Khi kể lại câu chuyện về Gawker, HuffPost và BuzzFeed — những công ty truyền thông mới cùng nhau phát minh ra sự lan truyền nhanh trên mạng — Smith phải cưỡng lại cám dỗ muốn khẳng định có thứ nằm trong trải nghiệm của ông làm thay đổi thế giới mãi mãi. Đó lại là câu chuyện cho sách tiểu sử về nhân vật lớn của Silicon Valley. Thay vào đó, “Traffic” là dạng chuyện phiêu lưu du đãng, bối cảnh đặt giữa những người thích bới móc chỉ trích, nhóm Jezebel, lũ ngốc vô dụng, đám nghiện và kẻ điên khùng của Silicon Alley, khu công nghệ nổi tiếng của Thành phố New York trên lý thuyết kéo dài từ tòa nhà Flatiron đến khu gầm cầu Manhattan.

Nhưng dù tác giả Smith từ chối phong thánh cho nhân vật chính trong cuốn sách của mình, Nick Denton (nhà sáng lập Gawker Media) và Jonah Peretti (nhà đồng sáng lập HuffPost và BuzzFeed), đôi khi họ cũng bắt gặp khoảnh khắc eureka kỳ lạ mà nhà văn nghiêm chỉnh hơn có thể nói đó là điều thay đổi thế giới. Đôi khi tác giả Smith thậm chí cũng trở thành nhà văn như thế: “Chúng tôi đang phát minh ra truyền thông kỹ thuật số,” ông viết về BuzzFeed.

10 bộ phim xưa rất đáng xem – và lý do vì sao bạn không nên bỏ lỡ chúng

Thập niên 1980 là một thời kỳ vàng cho những ai yêu phim xưa: máy chiếu VHS bắt đầu phổ biến, các rạp chiếu phim hồi cố còn hoạt động rộn rà...