Search This Blog

Saturday, October 5, 2024

Người hứng chịu nhiều chỉ trích bào chữa cho di sản đời mình (và có một vài điều hối tiếc)

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn hồi ký “The Controversialist” (Kẻ gây nhiều tranh cãi), Martin Peretz ngẫm lại quãng thời gian lâu dài ông làm xuất bản và biên tập tờ The New Republic.

Nhà phê bình Irving Howe nói: “Khi nói về chính trị, anh phải có lập trường”. Martin Peretz trích dẫn dòng này trong phần đầu cuốn “The Controversialist”, cuốn hồi ký mới của ông, theo nghĩa đó là lối răn dạy ông chưa bao giờ ưa thích. Nhưng lời nhận xét ấy phù hợp với ông. Peretz viết như thể ông đang đi đi lại lại quanh bàn ăn, cái tôi và thái độ ghê tởm bản thân đang đấu tranh cho ra lẽ trong đầu ông.

Trong gần bốn thập kỷ, Peretz (mọi người gọi ông là Marty) là nhà xuất bản và tổng biên tập thích xía vào chuyện của người khác của tờ The New Republic, tạp chí xã luận quan trọng nhất nước Mỹ trong suốt những năm 1980 và 1990. Ông giảng dạy trong 5 thập kỷ tại Harvard, nơi ông coi như chỗ phát triển nhân sự cho tạp chí của mình.

Ông biết gần như tất cả những người quan trọng trong thế giới đan xen giữa báo chí, giới hàn lâm và chính phủ. Martin Luther King Jr. đến nhà ông ăn tối; ông là người đầu tiên Al Gore gọi điện sau khi Gore, người được ông bảo trợ, chính thức thua trong cuộc bầu cử năm 2000; Yo-Yo Ma chơi trong bữa tiệc sinh nhật của ông; Norman Mailer đấm ông trong một nhà hàng ở Provincetown. Đây chỉ mới là chạm đến bề mặt của bề mặt.

Peretz kết hôn với Anne Devereux Labouisse, người thừa kế gia sản của công ty máy may Singer. Khi không được mời đến những cuộc tranh luận hay nhất, ông bỏ tiền để tìm cách tham gia. Ông thích những bức thư ngỏ và những lời kiến nghị nảy lửa. Ông mang cái mác Chủ nghĩa phục quốc Do Thái gây tranh cãi của mình như thể chỉ đang đội một chiếc mũ nồi. Ông là kiểu người mà nếu buổi lễ tưởng niệm yêu cầu chỉ nói trong năm phút thì sẽ nói liên tục đến 20 phút.

Tôi thấy mình đang nói chuyện về quá khứ. Peretz, ở thời điểm hiện tại, đã mất đi ít nhất 64%. Cái kết chính thức đến vào năm 2010, khi ông đang viết blog (“một sai lầm”, ông viết). Ông đưa ra một số nhận xét thiết thực, trong bối cảnh một cuộc tranh luận lớn hơn, trong đó có nội dung người Hồi giáo có thể không xứng đáng được bảo vệ theo Tu chính án thứ nhất và rằng “tính mạng của người Hồi giáo thật rẻ mạt”. Sự phẫn nộ nổi lên không nguôi trong suốt thời gian dài. Ông viết về hậu quả như sau:

Cuộc xâm lược Iraq mà tôi ủng hộ là một thảm họa; hệ thống tài chính mà bằng hữu của tôi giúp xây dựng đã sụp đổ; vợ chồng tôi thì ly hôn; tờ New Republic bị bán sau khi tôi lo sợ sẽ phá sản — và giờ tôi ở đây trong bộ vest trắng đi trong Sân Harvard, xung quanh là các sinh viên hô: “Harvard, Harvard, thật đáng xấu hổ, tôn vinh một kẻ ngu xuẩn phân biệt chủng tộc.” Kẻ ngu xuẩn phân biệt chủng tộc rõ ràng là tôi. Đây là một kết cục ảm đạn, một cái kết tôi không hiểu hoặc không tin được.

Nhà báo chuyện gì cũng viết

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn “Bartleby and Me (Bartle và tôi)”, tác giả Gay Talese nhớ lại những đồng nghiệp nghề viết lách, chia sẻ bí mật trong ngành và đào sâu những gì sót lại của cuộc hôn nhân từng rất bùng nổ ở Manhattan.

Gay Talese có chút tật. Tôi muốn làm rõ vấn đề này vì nhìn chung, tôi vô cùng ngưỡng mộ con người ông: con người tài hoa đáng kính của thời kỳ Báo chí Mới ngày trước, ông vừa là biểu tượng sống động của Manhattan vừa là nhân vật xuất sắc nhất của chính mình.

Đó là tật của người viết văn, thói quen cũ thường gọi phụ nữ bằng màu tóc của họ, nhưng dưới dạng danh từ thay vì tính từ. “Tóc nâu mảnh khảnh quyến rũ.” “Tóc vàng mật ong mảnh khảnh và sành điệu buộc đuôi ngựa.” “Tóc nâu trẻ tuổi thích giao du.” “Tóc nâu vui tươi và thơm ngát trong chiếc váy cocktail màu đỏ.”

Ít ra hình ảnh lũ cáo bạc, trong đó có cả Talese đỏm dáng 91 tuổi, là ví dụ điển hình được lịch sự so sánh với loài vật thông minh.

Nếu thỉnh thoảng cảm thấy như thể bạn mắc kẹt trong bộ phim hoạt hình của Peter Arno là cái giá phải trả khi đọc tác phẩm mới của Talese, hãy cho tôi tham gia. Nhưng chỉ có một đoạn trong cuốn sách mới nhất của ông, “Bartleby and Me”, chứa những trích dẫn trên, có thể được coi là khá mới. Đó là Phần 3, câu chuyện về Nicholas Bartha, người nhập cư gốc Romania và là bác sĩ đã cho nổ tung ngôi nhà phố trị giá hàng triệu đô la của mình ở khu Upper East Side năm 2006, rồi tự sát, còn hơn bán nhà để cho vợ cũ hưởng số tiền thu được theo lệnh của thẩm phán.

Điều gì đã xảy ra sau khi tổng cộng hơn 408 tấn mảnh vụn được dọn sạch liên quan đến “một tóc vàng 40 tuổi quyến rũ gốc Nga có tên Janna Bullock”, nhà phát triển bất động sản và cố vấn của Page Six mà Talese, cũng là cư dân Upper East Sider, ban đầu thường gọi là “phu nhân chân vịt bơi”. Đó quả là câu chuyện rất đáng chú ý, và xảy ra ngay sân sau nhà tác giả.

Cuốn sách được đặt tên để tỏ lòng kính trọng với truyện ngắn kinh điển của Herman Melville, “Bartleby and Me” có hàm ý tự thấy địa vị của Talese giống như “người viết văn cũ” và những nhân vật khiêm tốn hơn lại thu hút được sự quan tâm nhiều nhất của tác giả trong suốt sự nghiệp lâu dài: người gác cửa, tài xế, đầu bếp, nhân viên, người dọn dẹp, cảnh sát, mèo trong ngõ, người diễu hành cuối cùng trong cuộc diễu hành. (Đây là một nhà văn dường như chuyên tập hợp hồ sơ tiểu sử ngay cả tiểu sử của mảnh đá vôi.) Jack Vergara — bồi bàn kỳ cựu tại Câu lạc bộ Links gần đó, nghe mùi gas tỏa ra từ ngôi nhà phố tồi tàn, có tên Con Ed, và khăng khăng chỉ phục vụ bữa sáng nguội cho các thành viên câu lạc bộ vào sáng hôm đó — là kiểu “nhân vật phụ” không thể xóa nhòa mà tác giả Talese chuyên viết về.

Nếu được sở hữu một siêu năng lực…

nguồn: New York Times,

biên dịch: Giang Minh Anh; hiệu đính: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách “Invisibility” (Tàng hình), giáo sư vật lý và khoa học quang học Gregory J. Gbur đi sâu nghiên cứu lịch sử và tương lai của một kỹ thuật dẫn truyện được nhiều người yêu thích.

Câu chuyện lịch sử của tác giả Gregory J. Gbur không nhắc câu nào đến động cơ thường thấy trong tiểu thuyết và phim ảnh đại chúng khi người ta theo đuổi năng lực tàng hình: khả năng nhìn lén người khác khỏa thân. Ngay từ thời tác phẩm “The Invisible Spy” (Điệp viên vô hình) (1754) của Eliza Haywood, các nhà văn đã lo lắng, hoặc mừng rỡ, với khả năng sử dụng năng lực tàng hình để rình mò “phòng thay đồ, tủ quần áo và nơi riêng tư”; thậm chí cả Người Vô Hình kiêu ngạo của H.G.Wells cũng không ngại ăn trộm quần áo của những kẻ quấy phá, khiến họ phải khỏa thân truy đuổi anh ta khắp quảng trường. Cuốn “Invisibility” cũng không đi sâu vào cám dỗ muốn thực hiện những hành vi trộm cắp và tống tiền mà không bị phát hiện — liên quan đến gián điệp — nhưng có đề cập đến một trong những câu chuyện ngụ ngôn sớm nhất về năng lực tàng hình trong văn minh phương Tây.

Trong “The Republic” (Cộng Hòa), Plato kể câu chuyện người chăn cừu Gyges, người này tìm thấy chiếc nhẫn vàng khiến người đeo trở nên vô hình. Ngay khi Gyges chứng minh được chiếc nhẫn có tác dụng, hắn ta liền hành động: Hắn xâm nhập vào hoàng cung, quyến rũ hoàng hậu, âm mưu cùng bà ta, giết hại đức vua và chiếm lấy vương quốc. Plato viết, “Không người nào,” nếu được ban tặng khả năng tàng hình, “có tâm hồn đủ vững chắc sắt đá để giữ vững công lý.” Lời kể của Plato là câu chuyện ngụ ngôn về những giằng xé giữa đạo đức và ý chí tự do, nhưng có thể hiểu theo nghĩa hẹp là kết luận của ông về thái độ của nhân loại đối với năng lực tàng hình. Nếu có thể tìm ra cách tàng hình, bạn có thể thống trị thế giới.


Tác giả Gbur, giáo sư vật lý và khoa học quang học tại Đại học Bắc Carolina ở Charlotte, bắt đầu kể lại lịch sử bằng cách tiết lộ thông tin có thể khiến những độc giả không quen thuộc với nghiên cứu về khả năng tàng hình cảm thấy kinh ngạc: “Những bài báo khoa học đầu tiên mô tả tính chất vật lý của áo choàng tàng hình công bố vào năm 2006, được khắp mọi nơi công nhận xác đáng là cuộc cách mạng đối với ngành vật lý”. Tác giả Gbur khép lại cuốn sách, sau khi độc giả theo dõi qua từng trang, bằng một tiết lộ bất ngờ nữa: “Đừng mong đợi sớm có áo choàng tàng hình.” Tác giả nói thêm, vô số những thử thách phức tạp liên quan có thể “sẽ không bao giờ hoàn toàn khắc phục được”. Giữa hai lời khẳng định mâu thuẫn, thậm chí có phần trái ngược này, là lịch sử khoa học nghiêm túc, cùng một số thảo luận ngắn hữu ích về những hư cấu xung quanh năng lực tàng hình. Độc giả bình thường ngậm ngùi nhận ra khoa học về năng lực tàng hình chính là khoa học ánh sáng.

Trong tác phẩm 'Airplane Mode', không phải tất cả lữ khách đều đi cùng hướng

nguồn: New York Times,

biên dịch: Giang Minh Anh; hiệu đính: Nguyễn Quỳnh Anh,



Tác giả Shahnaz Habib kể lại “irreverent history” (những chuyện bên lề) dí dỏm nhưng đôi khi tàn nhẫn về việc ai được đi đâu và điều gì bị che giấu trong hành trình của họ.

Giống như việc tập thể dục, đánh răng và học đại học, du lịch từ lâu vẫn được coi là điều tốt đẹp không thể chối cãi — một phần thiết yếu trong trải nghiệm sống hiện đại. Tuy nhiên, gần đây một số người thông minh, và ngay cả những người thường xuyên đi máy bay, bắt đầu có thái độ dè dặt.

Du lịch tại chỗ (staycation), cụm từ này theo từ điển Merriam-Webster bắt nguồn từ quảng cáo thời Thế chiến II, đã hoàn toàn được chấp nhận trong thời gian đóng cửa vì đại dịch, khi bầu không khí bỗng nhiên trong lành không còn ô nhiễm giao thông và tiếng chim hót líu lo ngay trong sân nhà. Trên tờ The New Yorker mùa hè năm ngoái, nhà triết học Agnes Callard có bài “Lý lẽ phản đối đi du lịch”, dẫn đến một loạt bài đáp trả hăng hái, thậm chí giận dữ, và bị những người thích đi đến những nơi xa lạ gọi là “giật tít câu khách”, một số người còn phẫn nộ viết bài khi đang trên từng cây số.

Và tác phẩm “Airplane Mode” của Shahnaz Habib đến với độc giả, cuốn sách sống động và, đúng vậy, có phạm vi rộng, đặt ra vấn đề với một số quy ước thông lệ và cả những tác giả nổi tiếng nhất viết về thú tiêu khiển này.

Cuốn sách bắt đầu bằng giả định liệu “du lịch” có phải là thú giải trí hay không, hay đó là biến động bạo lực tiềm ẩn, hoặc cuộc chiến với bộ máy chính quyền. “Chỉ có người Mỹ, người Anh, người Úc và người Nhật mới đi du lịch,” một chủ cửa hàng bán thảm nói với tác giả Habib ở Konya, Thổ Nhĩ Kỳ; lời này cũng diễn tả cùng ý với một tuyên bố tác giả từng nghe thấy, với thái độ trịch thượng hơn, ở trường đại học: “Những người từ thế giới thứ ba không đi du lịch; họ đi di cư.”

Habib ưa thích thuật ngữ “thế giới thứ ba” hơn các từ thay thế “phải đạo chính trị” khác, tác giả giải thích rất rõ ràng trong phần lời bạt, ca ngợi “sự táo bạo của vần điệu thú vị chứa trong cụm từ” mà Steely Dan cũng nhận thấy. Tác giả từng làm dịch giả cho Liên Hợp Quốc, và tiếng Anh là nguồn cảm hứng say mê. Habib thấy hành vi thường bị coi là bất hợp pháp “lảng vảng” (loitering), chẳng hạn, “giống với xả rác (littering) hàm ý về thứ không nên có ở đó, đồng thời cũng dễ liên tưởng đến trò xổ số (lottery) và canh bạc chờ đợi điều gì đó xảy ra”.

Những con đường gây tổn hại cho chúng ta và mọi điều xung quanh như thế nào

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn “Crossings” (Những giao lộ), tác giả Ben Goldfarb chỉ ra việc chúng ta phụ thuộc vào đường cao tốc và xa lộ là vấn đề đáng lo ngại cả về môi trường cũng như xã hội.

Đứa con trai lớp bảy của tôi đi bộ từ nhà ở Bronx đến trường phải băng qua đường Henry Hudson Parkway (NY 9A) bằng cây cầu đáng sợ dành cho người đi bộ. Để đến được không gian xanh của Công viên Van Cortlandt cách vài dãy nhà về phía đông bắc, thằng bé phải vượt qua sáu làn đường giao thông kinh hãi. Tôi tin con mình biết quan sát cả hai chiều, nhưng tôi không tin những người lái xe sẽ chú ý đến nó. Tôi rất lo lắng về những con đường của thành phố, hậu quả sức khỏe do không khí ô nhiễm, tiếng ồn không dứt và những tai hại chúng gây ra — với mục đích ác ý —đối với đa số các khu dân cư da đen và da nâu như khu vực của chúng tôi.

Cuốn sách “Crossings” của nhà báo môi trường Ben Goldfarb, là góc nhìn thú vị và đầy cảm thông về hậu quả của những con đường, gợi cho chúng ta suy nghĩ lại về việc quy hoạch đường xá thông qua ngành khoa học tương đối mới về sinh thái đường bộ. Tác giả Goldfarb viết, những con đường “không chỉ đơn thuần là triệu chứng của nền văn minh mà còn là căn bệnh đặc thù”. Ông miêu tả ngành sinh thái đường bộ, nghiên cứu về tác động của đường bộ đối với thực vật và động vật, là “sự đồng cảm được thể hiện bằng khoa học”.

Tiên đề chính của ngành học này cho rằng đường sá là “tác nhân gây hỗn loạn” làm biến dạng trái đất ở mọi quy mô. Khoảng hơn 64 triệu km đường bộ bao quanh trái đất, từ những tuyến đường khai thác gỗ bất hợp pháp giăng khắp Amazon cho đến Đường cao tốc xuyên Mỹ chạy khắp lục địa. Nước Mỹ có 10 triệu rưỡi km đường, là mạng lưới đường bộ dài nhất thế giới. “Cuộc cách mạng ô tô giữa thế kỷ của chúng ta tạo ra không chỉ đường cao tốc mà còn cả bãi đậu xe, đường lái xe, những vùng ngoại ô, đường ống, trạm xăng, tiệm rửa xe, cửa hàng bán đồ ăn cho xe hơi, cửa hàng lốp xe và trung tâm thương mại,” Goldfarb viết, “cả một hệ sinh thái tổng hợp được thiết kế phục vụ cho phần tử chủ đạo của hệ, xe hơi.”

Những năm 1960, chỉ có 3% động vật có vú sống trên cạn chết trên những con đường ở Bắc Mỹ. Đến năm 2017, con số đó này tăng gấp bốn lần. Khoảng một trăm người và một triệu động vật hoang dã bị ô tô giết chết mỗi ngày chỉ riêng ở Mỹ. Nhiều loài, thường bị va đụng chết trên đường bộ, phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng.

Tác giả Goldfarb cũng chỉ ra các con đường cản trở việc di cư của động vật bằng đường bộ và đường thủy, góp phần làm mất môi trường sống, làm “ô uế” các dòng sông, làm ô nhiễm đất, “phủ khói bụi” bầu trời, thúc đẩy sự lây lan của các loài xâm lấn và “phá vỡ tính toàn vẹn sinh học ở bất kỳ nơi nào chúng xâm nhập”. Chúng thậm chí còn “điều chỉnh cả mã gen”. Chim én vách đá đã thích nghi với đôi cánh ngắn hơn để nhanh nhẹn tránh bị ô tô đâm.

Tuyến US 93, được xây dựng từ thời Eisenhower, đi qua các vùng đất ngập nước và đồng cỏ ở Montana cũng như Khu bảo tồn người da đỏ Flathead rộng hàng triệu mẫu Anh, nơi sinh sống của các Bộ lạc Salish và Kootenai thuộc Liên minh miền Nam. Những năm 1990, các cơ quan chính phủ đề xuất mở rộng đường liên bang từ hai làn lên bốn làn. Các bộ lạc cùng “thể hiện sức mạnh pháp lý và luân lý của mình,” tác giả Goldfarb viết, và kế hoạch US 93 cuối cùng sửa lại với khoảng 40 điểm qua đường cho động vật hoang dã, bao gồm một cầu vượt trị giá hàng triệu đô la dành cho gấu xám Bắc Mỹ “đi vòng phía trên đường cao tốc với vẻ duyên dáng như ở Trung Địa.”

Theo một số ước tính, chúng ta sẽ có hai tỷ phương tiện lưu thông trên đường vào năm 2030 và thêm 24 triệu km đường cao tốc vào năm 2050. Goldfarb giải thích: “Tương lai của giao thông vận tải toàn cầu gần như chắc chắn sẽ có nhiều ô tô hơn chứ không ít hơn.” Đường sá trở thành chủ đề lớn đối với hàng trăm nhà khoa học trên thế giới. Trong cuốn “Crossings”, Goldfarb kể lại một vài trong số đó và liệt kê nhiều biện pháp khắc phục tai nạn giao thông của động vật, bao gồm cả “những sợi dây trông mỏng manh” mắc giữa các tán rừng để loài vượn ở Đài Loan và khỉ ở Brazil có thể đu qua xa lộ.

Cuốn tiểu sử tiết lộ về cuộc đời người anh hùng Brazil vô danh

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách “Into the Amazon” (Hành trình Amazon) của tác giả Larry Rohter tôn vinh cuộc phiêu lưu của Cândido Rondon, nhà thám hiểm, nhà khoa học, chính khách tiên phong và còn hơn thế nữa.

Muốn thực sự tiến bộ, ta buộc phải nhìn về quá khứ. Gần đây, có nhiều cuốn sách tiết lộ câu chuyện phức tạp hơn nhiều so với những gì chúng ta được dạy — về những nhân vật ẩn danh và những dân tộc từng bị gạt ra ngoài lề xã hội nhưng họ góp phần định hình nên thế giới chúng ta. Trong “Into the Amazon”, nhà báo Larry Rohter kể câu chuyện được nghiên cứu kỹ lưỡng về nhân vật quan trọng, đáng suy ngẫm, nhưng thế giới nói tiếng Anh thường ít biết đến.

Những thăng trầm trong cuộc đời nhà thám hiểm, nhà khoa học và người bảo vệ dân tộc bản địa này làm nổi bật lên sự thật thú vị: Luôn có nhà tư tưởng chống lại thái độ thành kiến của thời đại. Trong câu chuyện về Cândido Rondon, ông xuất sắc chơi trò tay trong, dùng quyền lực để bảo vệ những người không thể tự vệ.

W.E.B. Du Bois và Di sản — cùng sự Phản bội — về những người lính da đen

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong cuốn sách “The Wounded World” (Thế giới bị thương), tác giả Chad Williams nghiên cứu cuộc đấu tranh của học giả-nhà hoạt động xã hội Du Bois để hoàn thành cuốn sách kể lại trải nghiệm của quân đội da đen trong Thế chiến I.

Tháng 02.1938, W.E.B. Du Bois mừng sinh nhật lần thứ 70 của mình bằng buổi lễ vinh danh ông tại trường Cao đẳng Spelman ở Atlanta. Trong trang phục tiến sĩ Harvard, ông có bài phát biểu kể lại cuộc đời và sự nghiệp với tư cách học giả và nhà hoạt động xã hội. Theo nhà sử học Chad Williams miêu tả trong câu chuyện thú vị, Du Bois kể cho bạn bè và những người nổi tiếng tới tham dự về việc ông bị ảnh hưởng và phiền muộn sâu sắc như thế nào bởi Thế chiến I.

“Trong một khoảnh khắc hồi chiến tranh, tôi cảm thấy mình có thể là một người Mỹ yêu nước không chút dè dặt”, Du Bois nói. “Tôi không tin vào chiến tranh, nhưng tôi nghĩ trong cuộc chiến cùng nước Mỹ chống lại chủ nghĩa quân phiệt vì dân chủ, chúng tôi sẽ đấu tranh giải phóng nòi giống người da đen nói chung.”

Niềm hy vọng ấy sớm tan thành bọt nước. Du Bois tới Pháp sau hiệp định đình chiến để phỏng vấn đội quân người da đen. “Tôi thấy bùn đất của chiến hào; tôi nghe từ miệng những người lính về cách đối xử người da đen phải chịu trong quân đội Mỹ,” ông nói. “Tôi bị thuyết phục và đã phát biểu các sĩ quan da trắng Mỹ hăng hái chiến đấu chống lại người da đen trong hàng ngũ của chính mình hơn là chống lại quân Đức. Tôi vẫn tin điều này phần lớn là sự thật.”

Những người thân thiết nhất với ông đều biết trong gần hai thập kỷ, Du Bois cố gắng viết xong cuốn lịch sử đồ sộ về cuộc chiến, “The Black Man and the Wounded World” (Người da đen và thế giới bị thương). Williams gọi bản thảo dang dở này là “tác phẩm quan trọng nhất của Du Bois chưa bao giờ đến được với công chúng”. Câu chuyện với giọng kể sắc sảo, được nghiên cứu sâu sắc của tác giả xoay quanh những đấu tranh của Du Bois để hoàn thành bản thảo này và đối mặt với di sản của cuộc chiến.

Từ những lá bài Tarot đến thiết kế tối giản, chúng ta không đừng được việc dự đoán tương lai

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Trong cuốn “A Century of Tomorrows” (“Một thế kỷ trong tương lai”), tác giả Glenn Adamson cho ch...