Search This Blog

Friday, October 4, 2024

Bị đánh giá tệ à? Kiện nhà phê bình đi. Whistler từng làm như thế.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách “Falling Rocket” (Pháo hoa) của Paul Thomas Murphy tập trung vào phiên tòa đầy kịch tính gây chia rẽ giới nghệ thuật London.

“Trước đây tôi đã chứng kiến, và nghe thấy nhiều điều về sự trơ tráo của Cockney; nhưng chưa từng ngờ được sẽ nghe đến chuyện một gã hợm hĩnh đòi những 200 đồng guinea để hất lọ sơn vào mặt công chúng.” Những lời này là của John Ruskin, nhà phê bình nổi tiếng thời Victoria ở Anh, viết năm 1877 nhận xét về “Nocturne in Black and Gold— The Falling Rocket” (Khúc đêm đen và vàng: Pháo hoa), bức tranh của James Abbott McNeill Whistler, họa sĩ hào hoa nhất thời bấy giờ.

Và việc này dẫn đến phiên tòa nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật, khi Whistler quyết định có bước đi gây sốc là kiện nhà phê bình vì bài đánh giá của ông ta — vừa thu hút sự chú ý của công chúng vừa đòi bồi thường một nghìn guinea.

Bắt hàng trăm người làm nô lệ, nhưng rồi để lại di chúc trả tự do cho họ. Có lẽ vậy.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Lời tuyên bố đầy tranh cãi lúc lâm chung; nhiều ý nguyện trái ngược nhau; những lời cáo buộc tâm thần: Đây là những vấn đề trọng tâm trong cuốn sách A Madman's Will (Di chúc của một người điên), cuốn sách là lời kể của Gregory May về một chính khách Virginia, người giam giữ nhiều đàn ông và phụ nữ trong vòng nô lệ suốt cuộc đời của mình để rồi trả tự do cho họ khi ông hấp hối.

Vì sao một người bảo vệ quyền sở hữu nô lệ khét tiếng trong chính quyền, một nghị sĩ Mỹ và là một trong những người sở hữu nô lệ nhiều nhất đất nước, lại lựa chọn thực hiện một trong những sự kiện giải phóng nô lệ lớn nhất lịch sử là phóng thích tất cả nô lệ ông sở hữu? Ông ấy có bị điên không? Điều quan trọng không kém là người dân và đất nước của ông có sẵn sàng chấp nhận lựa chọn ấy và những hậu quả từ đó hay không? Đây là một vài câu hỏi khiến những mong muốn cuối cùng của người chủ nô trở thành câu chuyện xôn xao ở thời điểm đó và thúc đẩy cuốn sách nghiên cứu mới mở rộng tầm mắt và đầy nhiệt huyết của tác giả Gregory May , “A Madman's Will”.

Người chủ nô là John Randolph vùng Roanoke — một chính khách lâu năm ở Virginia nổi tiếng sắc sảo, xanh xao, tính dục không rõ ràng, chưa bao giờ kết hôn hay có con nên không có người thừa kế hợp pháp khi ông qua đời năm 1833. Randolph từng thừa kế nợ nần cũng như đất đai và tài sản con người, nhưng nhờ khai thác lao động nô lệ cẩn trọng và có hệ thống, ông tạo dựng được khối tài sản khổng lồ.

Khi làm việc tại Quốc hội, có lúc ông từng xông vào Hạ viện cùng với bầy chó săn và thường xuyên gây ồn ào như thế bằng ngôn từ châm chọc — truyền tải qua “giọng nói nữ tính chói tai”, có thể do bất thường di truyền hoặc bệnh tật ở tuổi vị thành niên — nên đồng nghiệp của ông thường né tránh. Sau khi Henry Clay, khi đó là ngoại trưởng, bắn xuyên áo khoác của Randolph trong hiệp đấu tay đôi thứ hai, Randolph bắn súng của mình vào không trung rồi tuyên bố: “Anh nợ tôi một chiếc áo khoác, anh Clay.” Là nhân vật gây tranh cãi trong suốt cuộc đời mình, khi qua đời Randolph gieo rắc nhiều nỗi hoang mang bằng một loạt di chúc cho thấy không chỉ nhiều điểm mâu thuẫn điên rồ của ông, mà theo như tác giả May chứng minh hết sức thuyết phục, cả những mâu thuẫn của một thời đại và quốc gia.

Lúc lâm chung, Randolph nói với bác sĩ đang điều trị cho ông mong muốn “xác nhận mọi ý định trong di chúc của tôi, đặc biệt là tôn trọng nô lệ của tôi, là những người được tôi trả tự do và tôi đã có dự phòng cho họ.” Và rồi buổi sáng hôm ấy, trước nhiều nhân chứng, Randolph tuyên bố: “Tôi mong muốn những điều khoản trong di chúc của tôi, đặc biệt là điều khoản về nô lệ của tôi, được thực thi, và nhất là việc chu cấp cho người đàn ông này.” Người đàn ông được đề cập đến là John White, một trong số ít những người bị bắt làm nô lệ được Randolph coi là “bạn thân nhất” của mình, nhưng người này bị ông bỏ tù sau khi cố gắng bỏ trốn, và chẳng bao lâu trước còn bị đánh đòn vì cáo buộc “cờ bạc bằng tiền ăn cắp.”

Vấn đề là: Những gì người sắp chết nói hoàn toàn khác với nội dung di chúc cuối cùng của ông. Một số di chúc trước đó, được ghi lại từ năm 1800 đến năm 1821, với nhiều bản bổ sung khác nhau thêm vào nhiều lần sau đó, đã có nội dung trả tự do cho nô lệ của ông và hứa cấp tài sản hỗ trợ họ. Tuy nhiên, bản di chúc cuối cùng được biết đến, từ năm 1832, lại đảo ngược hết nội dụng. Trong đó, Randolph hủy bỏ nguyện vọng trả tự do cho nô lệ và để lại phần lớn tài sản của mình cho đứa con trai 2 tuổi của cháu gái ông.

Cộng đồng da đen kiên cường 'Xây nên từ ngọn lửa' của một vụ thảm sát

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Cuốn sách mới đầy quyết tâm của tác giả Victor Luckerson kể lại lịch sử vùng Greenwood, bang Oklahoma, từ những ngày đầu thịnh vượng cho đến vụ thảm sát chủng tộc năm 1921 và hậu quả sau đó.

Nếu từng dọn lò sưởi, hoặc tệ hơn là phải rải hài cốt hỏa táng của người thân, bạn có lẽ đã nín thở. Bạn không muốn hít phải hạt tro màu xám nào bay quanh bạn. Nhưng tro tàn là thứ dai dẳng. Nó bám vào da, tìm cách chui vào mũi và dính nhằng nhẵng lên quần áo bạn như dây kim tuyến rẻ tiền treo cây thông Noel. Tro tàn — dù trong lò sưởi hay trong hũ cốt — khiến bạn nhớ lại những gì từng tồn tại và chế nhạo bạn vì điều ấy sẽ không bao giờ trở lại nữa.

Trong cuốn sách mới rất cuốn hút, “Built From the Fire: The Epic Story of Tulsa’s Greenwood District, America’s Black Wall Street “ (Xây nên từ ngọn lửa: Câu chuyện hào hùng về Quận Greenwood vùng Tulsa, Phố Wall Đen của nước Mỹ), tác giả Victor Luckerson lục tìm trong những lớp bồ hóng và tro bụi, tàn tích về thể chất và tâm lý của vụ thảm sát chủng tộc Tulsa, điều tiếp tục ám ảnh cộng đồng người da đen của thành phố hơn một thế kỷ sau khi sự việc xảy ra.

Trong vòng hai ngày mùa xuân năm 1921, quận Greenwood vùng Tulsa bị phá hủy và hàng trăm cư dân ở đây bị sát hại. Được coi là hình mẫu về thành công trong kinh doanh và quyền tự quyết của người da đen ở thời đại Jim Crow, Greenwood trở thành mục tiêu bạo lực khi có tin đồn lan truyền thiếu niên da đen có tên Dick Rowland tấn công tình dục một phụ nữ da trắng trong thang máy. Cuộc phô trương vũ lực của người Greenwood nhằm ngăn cản Rowland bị hành hình kiểu lynch đã leo thang thành cuộc tấn công tổng lực nhắm vào người Tulsan da đen của nhóm người da trắng là thành viên ban trật tự, trong đó có một số người được cảnh sát giao vũ khí. Theo tác giả Luckerson kể lại, “Hơn 1.200 ngôi nhà bị san bằng, gần như mọi cơ sở kinh doanh bị thiêu rụi và số người không xác định — ước tính lên tới 300 người — bị sát hại.”

Tác giả Luckerson, là nhà báo ở Tulsa, khéo léo đưa chúng ta đi qua lịch sử vùng Greenwood, dằn lại thôi thúc muốn tôn vinh những người thành lập nên quận này hoặc tán đồng ý kiến cho rằng nhiều doanh nghiệp do người da đen sở hữu hơn có thể khắc phục những tàn phá của chủ nghĩa tư bản chủng tộc. Thay vào đó, tác giả giới thiệu một loạt nhân vật đang tìm cách thoát khỏi miền Nam thời hậu Tái thiết, đến Tulsa đầu những năm 1900 và giúp đưa Greenwood trở thành “Địa đàng phía Tây.”

Cơ hội dường như rộng mở ở bang mới Oklahoma thu hút các nhà tư bản không nao núng, những người đàn ông tự tin, những người vợ cần cù và những người mẹ chung thủy đến nơi trước đây được gọi là Lãnh thổ Da đỏ, nơi sinh sống của tập hợp của những người bản xứ trong khu vực và các bộ lạc bị ép buộc chuyển đến đó. Mục tiêu là tạo ra “nơi trú ẩn cho tầng lớp trung lưu da đen đang phát triển… nơi vẫn có thể khai khẩn đất đai, vẫn xây dựng được của cải, quyền lực chính trị vẫn được đảm bảo, ngay cả khi quốc gia quay lưng lại với các quyền tự do đẫm máu thỏa thuận được trong thời Nội chiến.”

Nước Mỹ qua lăng kính truyền hình thực tế của Donald Trump và Mark Burnett

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh


Năm 2004, phóng viên mảng giải trí Setoodeh khi đó 22 tuổi, được giao nhiệm vụ theo dõi chương trình "The Apprentice" (Người học việc). Cách kết hợp độc đáo giữa quảng cáo sản phẩm và những màn cảm xúc mãnh liệt của chương trình nhanh chóng thu hút sự chú ý của công chúng. Nhiều năm sau, Setoodeh trở thành tổng biên tập tạp chí Variety, còn Donald Trump dĩ nhiên trở thành tổng thống Mỹ — thành công này có thể nói phần lớn nhờ vào hình ảnh doanh nhân thành đạt, cứng rắn trong lòng công chúng được ông Trump xây dựng trên truyền hình.

Vậy nên cũng không có gì ngạc nhiên khi Setoodeh, giống như nhiều người khác từng làm việc liên quan đến Trump, lại viết thêm một đầu sách cho kho tàng sách không ngừng mở rộng về Trump. Tác giả Setoodeh thừa nhận chương trình "The Apprentice" được "phân tích, tranh luận, tham khảo và công nhận là yếu tố chính" trong chiến thắng năm 2016 của Trump. Tác giả hứa hẹn cuốn "Apprentice in Wonderland" (Người học việc ở xứ sở diệu kỳ) sẽ mang đến góc nhìn mới: "những điều còn thiếu khi người ta nói về chương trình — không chỉ là biểu tượng, mà còn là dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn hóa đại chúng."

Lời nói này của tác giả cũng giống như bao lời 'cuốn sách của tôi đặc biệt' thường thấy, nghe có vẻ chủ quan bình thường, thế nhưng hóa ra thật sự cũng không có gì khác biệt. Chương trình "The Apprentice" được coi là "dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn hóa đại chúng" hoàn toàn nhờ ngôi sao của chương trình trở thành tổng thống. Bản thân "chương trình" này, theo chính lời kể của tác giả Setoodeh, chỉ là một sản phẩm truyền hình thực tế như bao chương trình khác: cực kỳ cuốn hút, được dàn dựng công nghiệp có thể sản xuất hàng loạt với chi phí thấp. Quãng thời gian tham gia chương trình truyền hình thực tế của Trump đã được khai thác quá nhiều, khó mà tìm thêm được ý nghĩa gì từ đây. Cuốn sách này có thể tiết lộ điều gì chúng ta chưa biết?

Tác giả Setoodeh rất nỗ lực thu thập thông tin. Setoodeh phỏng vấn Trump sáu lần từ tháng 05.2021 đến tháng 11.2023, đồng thời trò chuyện với nhiều người từng làm việc hoặc tham gia chương trình. Nói cách khác, tác giả có thể tiếp cận người trong cuộc. Tuy nhiên, các mối quan hệ tiếp cận được — nhất là về chương trình truyền hình thực tế từ 20 năm trước, với nội dung xoay quanh những con người hay chuyện thèm khát được chú ý — cũng chỉ mang đến chừng ấy nội dung.

Phần lớn nguồn tin tác giả Setoodeh có được là biến thể của những câu chuyện về chương trình "The Apprentice" trong suốt những năm qua. Chúng ta nghe đi nghe lại Trump là người thiếu quyết đoán đồng thời diễn đạt kém lưu loát thuyết phục chứ không như trên chương trình biên tập, và ông ta có nhiều bình luận khiếm nhã đối với phụ nữ. (Chưa kể gần đây Trump bị một bồi thẩm đoàn buộc tội tấn công tình dục và phỉ báng, phải bồi thường cho người cáo buộc ông, nhà báo E. Jean Carroll, khoản tiền 83,3 triệu đô la) Một người tham gia chương trình, Jennifer Murphy, kể lại ông Trump từng hôn cô, nhưng cô không cảm thấy bị xúc phạm. "Tôi thấy ông Trump nhìn tôi giống như nhìn con gái ông ấy," cô kể cho tác giả Setoodeh. "Nhưng tôi cũng nghĩ ông ấy có chút thích tôi."


Đó là dạng lời kể — vô tình vừa hài hước vừa phản cảm — có thể đi theo hướng khai thác lý thú trong tay tác giả khác, nhưng Setoodeh lại bỏ qua và viết tiếp chuyện khác. Tác giả có thiên hướng trích dẫn nhiều hơn mức cần thiết, khiến câu văn bị nhấn chìm trong những lời tẻ nhạt. Cuốn sách nhàm chán nhất ở những phần phỏng vấn với Trump. Ông ta thao thao bất tuyệt lan man kể lại những ký ức trên trường quay cách đây hơn một thập kỷ, xen lẫn những lời nói dối trắng trợn về chiến thắng năm 2020. Phương pháp phỏng vấn của Setoodeh là cho Trump xem lại các cảnh quay trích từ chương trình "The Apprentice" để khuyến khích Trump nhớ lại quá khứ.

Ông Trump dường như rất thích hồi tưởng lại quãng thời gian tham gia chương trình. "Có vẻ nói về 'The Apprentice' khiến ông ấy thoải mái, giống như bôi dầu làm dịu cho bệnh nhân viêm phổi," Setoodeh viết. Và rồi so sánh hoài niệm vui vẻ của Trump với những cơn giận dữ bùng nổ mỗi khi ông nhớ lại năm tháng ở Nhà Trắng. Văn phòng của Trump được mô tả giống như chiếc hộp thời gian, trên tường treo những bài báo được đóng khung từ thời kỳ hoàng kim của ngành báo in. Tác giả Setoodeh so sánh Trump với bà Havisham mặc bộ váy cưới mục nát trong tác phẩm văn học "Những kỳ vọng lớn lao," và văn phòng của Trump giống như "Grey Gardens nhưng không có mèo" và cũng giống "một cửa hàng bách hóa lỗi thời." Cảnh tượng ấy trông thật thảm hại và buồn bã. Nhưng rồi Trump bất ngờ phá vỡ bầu không khí đó, bắt đầu tràng giang đại hải ca thán về Hunter Biden.

Nói cách khác, Trump luôn nhắc chúng ta nhớ ông ấy là người thế nào — cũng là vấn đề tác giả Setoodeh gặp khó khăn, ngay cả khi tác giả không thực sự biết cách khai thác hết nguồn thông tin có được. Tác giả trích dẫn nhiều câu nói sai lệch hoặc chỉ đúng một nửa của Trump, dẫn đến phải liên tục đính chính thông tin không chính xác. "Không thể thực sự phỏng vấn Trump với tư cách chính trị gia," tác giả Setoodeh viết. "Ông ấy không phải là chính trị gia. Không có cách nào hỏi ông ấy về điều hành đất nước. Ông ấy không thể điều hành được."

Setoodeh cố gắng tập trung vào chi tiết chương trình "The Apprentice", còn Trump liên tục đi chệch hướng. Mặc dù tác giả Setoodeh không coi Trump là "chính trị gia", nhưng ông vẫn là tổng thống Mỹ. Bốn năm cầm quyền của Trump có hậu quả thực sự đối với nước Mỹ. Những câu chuyện thị phi hậu trường của "The Apprentice" trở nên thật nhỏ bé khi mang ra so sánh.

Những chi tiết kỳ lạ nhất trong cuốn sách không hợp thành điều gì thú vị hơn ngoài những chuyện điên rồ theo phong cách "Alice ở xứ sở diệu kỳ" như tựa đề sách ám chỉ. Lần đầu tiên Setoodeh gặp Mark Burnett, nhà sản xuất chịu trách nhiệm chương trình "The Apprentice," Burnett "đưa tay phải ra để bắt tay tôi trong khi tay trái ông ấy bất ngờ véo mạnh vào núm vú tôi." Một người tham gia chương trình nhớ lại kỳ khám sức khỏe bắt buộc cho "The Apprentice" có tình huống "một cái ống" được "đưa vào dương vật của bạn rồi người ta xoay, cạo cạo và rút ra." Một cú nhéo núm vú của Burnett? Một cái ống trong dương vật? Nghe khá kỳ quặc! Nhưng nếu thiếu đi tầm nhìn rõ ràng về mục tiêu cuốn sách, những chi tiết ấy chỉ lơ lửng ở đó, mông lung trong gió.

"Văn hóa người nổi tiếng lấy đi rất nhiều thứ của đất nước này và thế giới, nhưng mặt tích cực — ít nhất trên lý thuyết — là nó cho phép người ta có mơ ước lớn." Tác giả Setoodeh tự nhủ điều này khi ngồi trong "biệt thự Goop" hai phòng ngủ tại một khách sạn boutique ở Florida, cơ sở thuộc thương hiệu mở rộng của Gwyneth Paltrow, trên chiếc ghế sofa đắt đỏ đến mức khiến tác giả "nghĩ về giấc mơ Mỹ." Đó là lúc tác giả đi gần nhất đến một ý tưởng độc đáo, bao quát về những gì muốn truyền tải cho độc giả. Nhưng rồi tác giả lại thu hẹp, quay về những ý tứ mông lung ám chỉ việc bán cho đại chúng một lối sống mơ ước cũng không tệ, "trừ khi thương hiệu đó nuốt chửng cả thế giới."

Tuy nhiên, Trump lại thường thể hiện khả năng nắm bắt nhạy bén hơn, so với các nhà quan sát truyền thông, về những mặt tối trong chính trị và xã hội. Ông phủ nhận ảo tưởng cho rằng văn hóa người nổi tiếng thực sự thúc đẩy bất kỳ điều gì có ý nghĩa hoặc tốt đẹp. "Tất cả chỉ xoay quanh một thứ: tỷ suất người xem," Trump nói với Setoodeh, khi nhớ lại những lần đàm phán với đài NBC. "Nếu có tỷ suất người xem, anh có thể là người tồi tệ nhất, độc ác nhất trên đời."

APPRENTICE IN WONDERLAND: How Donald Trump and Mark Burnett Took America Through the Looking Glass | By Ramin Setoodeh | Harper | 255 pp. | $32

Jennifer Szalai is the nonfiction book critic for The Times. More about Jennifer Szalai
_____
From The New York Times:

Millions of Americans Watched 'The Apprentice.' Now We Are Living It.

As a new book by Ramin Setoodeh shows, Donald Trump brought the vulgar theatrics he honed on TV to his life in politics.

https://www.nytimes.com/2024/06/14/books/review/apprentice-in-wonderland-ramin-setoodeh.html

Sức hút vĩnh cửu của những ngọn núi lửa nguy hiểm

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh


Trong cuốn "Adventures in Volcanoland" (Những cuộc phiêu lưu ở vùng đất núi lửa) nhà địa chất Tamsin Mather đưa chúng ta vào hành trình thám hiểm khắp toàn cầu và lịch sử cùng với niềm đam mê cả đời bà.

Ngọn Momotombo ở Nicaragua chỉ là một trong số nhiều núi lửa tác giả Tamsin Mather từng đến thăm trong sự nghiệp khởi nguồn từ niềm đam mê thời thơ ấu.

Tôi sống trên nền đá granit hồng, thuộc cấu trúc địa chất trải dài khắp miền nam Connecticut, nhô lên khỏi mặt đất đây đó giống như một đàn cá voi đang nổi lên mặt biển.

Trước khi tôi và vợ mua nhà, chúng tôi nhờ một vị chuyên gia thẩm định đến xem. "Chà," ông ấy nói, "nền đá của anh đi xuống cả nghìn dặm sâu trong lòng đất — nên không có gì phải lo lắng đâu."

Chúng tôi sinh sống trên nền đá yên bình này hơn hai thập kỷ, qua từng năm, tôi lại càng khó tưởng tượng cư trú ở vùng đất như Iceland hay Indonesia — nơi có nhiều nguy cơ khiến người ta lo lắng, bởi vì chất rắn của Trái đất biến thành chất lỏng, tro tàn hoặc khí rồi bay ra khỏi núi lửa.


Trang bìa cuốn sách "Adventures in Volcanoland" minh họa dòng sông dung nham nóng chảy màu cam và vàng, chảy ra từ giữa những ngọn núi đen thẫm. Chữ trên bìa có màu trắng và vàng.

Tác giả Tamsin Mather, nhà địa chất học tại Đại học Oxford, không gặp khó khăn nào như thế. Bà dành cả sự nghiệp đến thăm các ngọn núi lửa, tìm hiểu cách thức chúng hoạt động. Cho nên tác giả nhận ra Trái đất không phải một thế giới yên bình bao bọc trong một lớp vỏ ổn định, mà là một quả cầu của những cơn bão địa chất khó có thể chế ngự nổi.

Cuốn sách "Adventures in Volcanoland" sắp xếp theo những chuyến đi tác giả Mather từng thực hiện trong suốt sự nghiệp, bắt đầu với Vesuvius, nơi bà lần đầu tiên đến thăm từ khi còn nhỏ trong kỳ nghỉ cùng gia đình. Tiếp theo là núi lửa Masaya của Nicaragua, nơi bà thực hiện nghiên cứu khi còn là sinh viên cao học, và sau đó là núi lửa ở các lục địa khác.

Cuốn sách của Mather dành cho những độc giả như tôi: người ngoại đạo không phân biệt được đá bọt với đá mạt vụn núi lửa (tephra) nếu cả hai thứ này rơi vào đầu. Tuy nhiên, đôi khi đọc cuốn sách cứ như đọc sách giáo khoa, lời văn đầy nội dung như thể bách khoa toàn thư.

Trong đoạn trích như dưới đây, tác giả dường như đang giảng bài cho các nhà núi lửa học tập sự: "Sử dụng những tổng hợp về quy mô và thời gian (thường được xác định bằng cách đo hoạt động hoặc nồng độ các nguyên tố phóng xạ trong các loại đá liên quan đến phun trào) của các dạng phun trào khác nhau, chúng ta có thể rút ra xu hướng", Mather viết. "Chúng ta" ấy hả ? Không phải tôi đâu.

Ở những đoạn khác, "Adventures in Volcanoland" lại có chất trữ tình. Trong một chuyến đi chơi cùng gia đình ở tây nam nước Anh, tác giả Mather đưa cho lũ trẻ xem nắm tay đầy cát "để từ những hạt cát lấp lánh dưới ánh nắng hè, lũ trẻ có thể mường tượng ra khối magma batholith khổng lồ, bên trong đó hình thành nên những tinh thể này". Trong những chuyến thăm Masaya, tác giả quan sát lũ vẹt xanh bay ngang miệng hố núi lửa và lắng nghe tiếng ong vo ve trong lớp đất núi lửa mềm.

Bất chấp vẻ đẹp tác giả Mather nhìn thấy ở núi lửa, bà không bao giờ quên mối nguy hiểm của chúng. "Trong khi những ngọn núi lửa khiến người ta kinh ngạc đến nghẹt thở, luôn có nguy cơ một ngày nào đó chúng sẽ khiến ta không còn thở được nữa", bà viết.

Loài người chúng ta tồn tại có thể là nhờ ơn núi lửa. Mather suy đoán có khả năng nhiệt núi lửa dưới đáy biển, hoặc sét đánh trong quá trình phun trào, "đã giúp tái cấu trúc một số nguyên tử của Trái đất thành các phân tử cơ bản nguyên thủy đầu tiên, cho phép sinh vật bằng cách nào đó bắt đầu hình thành".

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Mather có chuyên môn về đo các loại khí phát ra từ núi lửa. Ngay cả khi không phun trào, núi lửa cũng giải phóng lượng lớn khí carbon dioxide. Nếu không có loại khí giữ nhiệt này, hiệu ứng nhà băng sẽ thay thế hiệu ứng nhà kính, và nhiệt độ của hành tinh sẽ giảm gần 60 độ.

Nhìn chung, Trái đất có thể giữ cho khí hậu ổn định. Núi lửa làm nóng hành tinh, còn các phản ứng hóa học lại hút khí carbon dioxide từ không khí, cuối cùng đưa nó xuống sâu dưới lòng đất.

Tuy vậy, cơ chế điều nhiệt toàn hành tinh này không đủ sức ngăn cản núi lửa định kỳ giải phóng sức tàn phá. Các vụ phun trào lớn có thể là nguyên nhân gây ra hầu hết các sự kiện tuyệt chủng hàng loạt trong lịch sử sự sống.

Những người phủ nhận biến đổi khí hậu chỉ ra lượng khí carbon dioxide khổng lồ do núi lửa phát ra để hạ thấp tác động của chúng ta lên khí hậu. Nhưng đối với tác giả Mather, sự so sánh này càng nhấn mạnh mức độ khủng khiếp của cuộc khủng hoảng chúng ta đang tự đặt mình vào. Tác giả đưa ra lời cảnh báo, "lượng khí phát thải tự nhiên này trở nên chẳng đáng kể so với những gì con người gây ra".

Với ô tô và nhà máy nhiệt điện than, chúng ta đã tạo ra một siêu núi lửa. Và nếu nhìn được dấu hiệu từ quá khứ, chúng ta sẽ thấy mình đang đe dọa hàng triệu loài rơi vào nguy cơ tuyệt chủng, có lẽ bao gồm cả chính loài người. "Nếu sự kiện tuyệt chủng hàng loạt xảy ra ngày nay, nó sẽ diễn ra cùng với loài người, và khi kết thúc, những ngọn núi lửa của Trái đất vẫn sẽ ở đây, thống trị hành tinh chúng ta bỏ lại", Mather viết.

Cuốn sách của tác giả Mather khiến tôi có phần bối rối về ngôi nhà của mình. Nền đá granit hồng bên dưới nhà mang lại cho tôi nền móng vững chắc tôi hằng mong muốn, nhưng ban đầu đây cũng là một khối chất lỏng nóng chảy khổng lồ đẩy lên qua lớp vỏ Trái đất hàng trăm triệu năm trước. Rồi nguội đi thành một loại đá cứng, kết tinh, và khi các lớp phủ mềm hơn bên trên bị xói mòn, nền đá granit phơi ra dưới ánh mặt trời.

Nền đá sẽ vẫn rắn chắc trong suốt cuộc đời tôi, nhưng hàng triệu năm sau, vùng đất núi lửa có thể sẽ phun ra một khối magma khác, bao phủ vùng đất này bằng một đợt tàn phá mới.

ADVENTURES IN VOLCANOLAND: What Volcanoes Tell Us About the World and Ourselves | By Tamsin Mather | Hanover Square | 374 pp. | $30

Carl Zimmer covers news about science for The Times and writes the Origins column. More about Carl Zimmer

https://www.nytimes.com/2024/06/19/books/review/adventures-in-volcanoland-tamsin-mather.html

Lá thư từ nhà tù: 'Lời trăn trối’ của Bernie Madoff

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh


Nhà báo Richard Behar trao đổi rất tích cực với nhà đầu tư tai tiếng này. Cuốn sách của nhà báo Behar tuy nghiêm khắc và có phần mỉa mai nhưng vẫn cho thấy tính nhân văn ở con người Madoff.

Bức chân dung Bernie Madoff là hình ảnh một người đàn ông trung niên mặc áo sơ mi sọc trắng xanh, đeo cà vạt xanh ở phía trước, phía sau ông ta là văn phòng bận rộn đầy những người trẻ tuổi ngồi trước màn hình máy tính.

Bức hình năm 1999 của Bernie Madoff tại sàn giao dịch Manhattan. Ông ta bị bỏ tù năm 2009 và qua đời năm 2021.

Tuy chúng ta vẫn chưa đến độ đưa Madoff ra làm nhạc kịch, nhưng nhiều năm sau khi ông ta qua đời do bệnh thận năm 2021 trong bệnh viện nhà tù liên bang, kẻ cầm đầu trò lừa đảo Ponzi vẫn tiếp tục mang lại lợi nhuận cho nền văn hóa đại chúng. Một bộ phim đang chiếu thử tại Trung tâm Lincoln. Loạt phim tài liệu của Netflix, “Quái vật phố Wall”. Và bây giờ, bổ sung vào chồng sách chất đầy về nhân vật này, trong đó đã có sách tô màu và cả bài tường thuật của phóng viên New York Times, sau này trở thành cơ sở cho ra đời bộ phim có Robert De Niro tham gia, chúng ta có thêm tác phẩm văn xuôi mới nhan đề “Madoff: The Final Word” (Madoff: Lời trăn trối).

Lời trăn trối? Chính tác giả cuốn sách, Richard Behar, cũng không chắc nữa.

Là nhà báo điều tra lâu năm, Behar từng đối đầu với nhiều tổ chức đáng gờm ưa thích kiện tụng chẳng hạn như Nhà thờ Scientology, tác giả trải qua 15 năm dường như vừa mắc kẹt vừa hưng phấn với cuốn sách đầu tiên của mình. Cùng với rất nhiều cuộc phỏng vấn phụ, tác giả đến thăm Madoff trong tù ba lần; trò chuyện với ông ta qua điện thoại khoảng 50 lần; và nhận được hàng chục bức thư viết tay cùng hàng trăm email của Madoff. (Tác giả không phải nhà báo đầu tiên hoặc duy nhất đến thăm nhân vật tù tội này, nhưng thời gian trôi qua nhiều người sẵn lòng chia sẻ thêm thông tin hơn — mặc dù cái chết cũng khiến nhiều người không còn có thể lên tiếng.)

Với mỗi đô-la Madoff lấy được, ông ta lại tạo ra ít nhất một chứng từ giấy tờ. Theo Behar, kho chứa 30 triệu tài liệu Madoff không thể tiêu hủy “gần bằng một nửa tổng số tài liệu in của Thư viện Quốc hội Mỹ”. Hoạt động băm nhỏ tài liệu được Madoff thực hiện bắt đầu từ giữa những năm 90, tại một cơ sở ở Brooklyn hiện có tên là Tuck-It-Away (nghĩa là Giấu đi), giống như một bữa tiệc âm thanh ASMR: hàng đống bao tải bố đựng mảnh vụn giấy được đưa đến nhà máy tái chế gần đó, bí mật của ông ta “tan thành mùn giấy”.

Ai mà biết được Madoff lại có ý thức về môi trường đến vậy?


Tác giả Behar tiếp cận ngọn núi tài liệu hùng vĩ này với thái độ nghiêm túc nhưng không bị gò bó. Behar tỏ ra thích thú với những vách đá kỳ dị trên ngọn núi cao này, chẳng hạn như cuộc bán đấu giá hàng hóa của Madoff, để thu lại tiền cho những người bị ông ta lừa đảo, thậm chí đem cả quần đùi của ông ta ra bán. Andres Serrano, nghệ sĩ nổi tiếng với tác phẩm “Piss Christ”, đã trả 700 đô-la (“có vẻ rẻ bèo”) cho 22 đôi giày trong bộ sưu tập đồ sộ của Madoff, trong đó có cả giày lười họa tiết da báo.

Theo Behar, những gì Madoff đọc trong tù có cuốn tiểu thuyết “Battle Cry” năm 1953 của Leon Uris. Nhưng những cái chết khủng khiếp của nhiều người liên quan trong câu chuyện Madoff — một tỷ phú dùng thuốc quá liều nổi lềnh phềnh trong hồ bơi ở Palm Beach; giỏ rác văn phòng của nhà tài chính người Pháp chứa đầy máu từ cổ tay bị cắt của ông ta — lại giống với tác phẩm của John Grisham hơn.

Cuốn sách “Madoff: The Final Word” giải thích cẩn thận những vấn đề phức tạp như thái độ quay mặt của J.P. Morgan Chase, mà Behar gọi là “con thủy quái khát máu khi liên quan đến Bernie Madoff”, hay phiên tòa xét xử Madoff Five, và còn có cả những lời cảm thán, lời bình và biểu cảm như “Bụp!” và “thấy chưa”. Những cuộc trò chuyện gần gũi của tác giả với Madoff — chẳng hạn, tác giả tiết lộ nhà trị liệu tâm lý của Madoff trong tù trấn an rằng ông ta chỉ đang biểu hiện cơ chế ngăn cách tâm lý chứ không phải tâm thần rối loạn nhân cách chống xã hội — sẽ được củng cố rất nhiều bằng chú thích cuối trang để phân biệt giữa tài liệu mới và tài liệu cũ.

Mãi đến giữa cuốn sách, chúng ta mới biết tiền đầu tư của Madoff đã được sử dụng để chi trả cho khoản đặt cọc khiêm tốn của chính tác giả để mua một căn hộ; bà dì Adele của tác giả là một trong những người mất hết tiền tiết kiệm cả đời, vậy mà bà đã chấp nhận được sự việc một cách đáng kinh ngạc. “Tôi gọi Bernie là 'Gonif bé nhỏ của tôi '," bà dì nói, "đó là từ ngữ tiếng Yiddish để chỉ một tên trộm hoặc một tên lừa đảo. 'Con gonif ăn trộm kẹo mút của người khác nhưng ăn trộm theo cách cực kỳ dễ thương.'”

Behar cũng có vẻ quyết tâm nhìn ra nhân tính ở Madoff và bi kịch của gia đình ông ta.

Người con trai lớn, Mark, tự sát năm 2010, đúng một năm sau ngày cha anh ta bị bắt; người con nhỏ hơn, Andrew, qua đời vì bệnh ung thư hạch 4 năm sau đó, và Bernie không được phép tham dự cả hai đám tang. Behar viết: “Mất đi những đứa con đã là bản án chung thân, nhưng phải khóc thương khi ngồi trong cái lồng giam nghĩa đen là điều không thể chịu đựng được, ngay cả đối với một dã thú ăn thịt người trong lĩnh vực tài chính”.

Tác giả nhận thấy có sự hài hước nghiệt ngã ở góa phụ của Madoff, bà Ruth, mức độ đồng lõa của bà hiện vẫn chưa xác định được. Behar phỏng vấn vị luật sư đang cố gắng trả lại cho bà Ruth chiếc giường cưới có vòm che — "ngắn hơn cỡ giường nữ hoàng" — và trích lời vị cảnh sát FBI cứng rắn đã mắng bà vì hút thuốc. “Ruth, cứ như thế sẽ chết đấy,” anh ta nói. “Giá mà như thế được,” bà đáp lời.

“Không có gì ngạc nhiên khi Bernie chẳng e ngại nhà tù,” viên cảnh sát kể sau đó. “Bà ta không bao giờ chịu câm [**] họng lại.”

Có lẽ gây tranh cãi nhất là việc tác giả Behar dành cả chương dài phản đối người ta mô tả những khách hàng bị mất trắng của Madoff là “nạn nhân”, thay vào đó tác giả thích dùng thuật ngữ “kẻ thua cuộc”. Rốt cuộc, tác giả viết, “những kẻ tội nghiệp bất hạnh này kiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ, ổn định đến mức không thể tin được mà chẳng hề kêu ca — thường là trong nhiều thập kỷ”.

Tác giả nói đúng khi cho rằng nhà đầu tư nên thực hiện thẩm định kỹ lưỡng. Nhưng cách tác giả lặp lại mà tự mình không nhận thức được những lời chỉ trích thường thấy của Donald J. Trump khiến cho nỗ lực ở cuối cuốn sách, muốn đưa Madoff và cựu tổng thống Trump trở thành biểu tượng minh họa cho cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần của cả quốc gia, có vẻ nông cạn.

Trong một đám đông nhiều con người bao gồm kế toán, nhân viên đánh máy, thư ký, thương nhân, kẻ phản bội, chuyên gia phân tích, quan chức Sở chứng khoán, luật sư, nhân viên tòa án và dì Adele thân yêu đã qua đời — bà từng làm việc với các nhà thần kinh học và kêu gọi giám định pháp y các nếp gấp ngoằn nghèo trên não của Bernie Madoff — nhà trị liệu tâm lý mà tác giả Behar tham vấn có vẻ giống như người được mời vào phút cuối và có phần lạc quẻ.

Dù có nhiều đoạn kỳ lạ và giật gân, cuốn sách “Madoff: The Final Word” vẫn chắt lọc được tinh túy của câu chuyện có tầm cỡ rất lớn. Nếu đây là lần đầu tiên bạn thưởng thức câu chuyện thì lại càng tuyệt vời.

MADOFF: The Final Word | By Richard Behar | Avid Reader Press | 384 pp. | $35

Alexandra Jacobs is a Times book critic and occasional features writer. She joined The Times in 2010. 
_____
From The New York Times:

Jailhouse Correspondence Gives Bernie Madoff the ‘Final Word’

The journalist Richard Behar communicated extensively with the disgraced financier. His rigorous if irreverent book acknowledges his subject’s humanity.

https://www.nytimes.com/2024/06/30/books/review/madoff-the-final-word-richard-behar.html

Cormac McCarthy không bao giờ nói về nghệ thuật sáng tác nhưng vẫn có một ngoại lệ ngạc nhiên thú vị

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh

Tuy nổi tiếng ngại đưa ra lời khuyên, tác giả Cormac McCarthy lại đưa ra rất nhiều quan điểm và biên tập tỉ mỉ cho người bạn lâu năm: Roger Payne, nhà sinh vật biển đưa tiếng hát của cá voi đến với thế giới.


Tình bạn kỳ lạ giữa nhà sinh vật biển Roger Payne (trái) và Cormac McCarthy trở thành mối hợp tác sáng tạo kéo dài hàng thập kỷ.

Thời điểm nhà sinh vật biển Roger Payne giành được "Giải thiên tài" MacArthur năm 1984, tên tuổi của ông đã có chỗ đứng vững chắc: được ghi nhận là người giúp khám phá ra cấu trúc bài hát của cá voi lưng gù, ông phổ biến những tiếng kêu và tiếng rít bí ẩn của cá voi thông qua loạt đĩa thu âm thực địa góp phần thúc đẩy phong trào bảo tồn biển.

Đến thập niên 1990, trong phong trào khoa học đại chúng lan truyền đến hàng triệu khán giả cảm giác hứng thú kinh ngạc đối với động vật biển có vú, Payne tham gia nhiều cuộc phỏng vấn, chỉ đạo phim IMAX và thuyết minh cho phim tài liệu truyền hình bằng giọng New England quý phái, khiến người ta nghe rõ từ "cá voi" trong tiếng Anh được đánh vần có chữ "h".

Ông cũng bắt đầu viết bản thảo cho một cuốn sách. Phần là hồi ký, phần là về lịch sử và phong trào hoạt động, cuốn sách "Among Whales" (Trong thế giới cá voi) có mục đích nêu bật tối đa mối lo ngại khi các đại dương ngày càng ô nhiễm, cùng với niềm tôn kính đối với những gã khổng lồ đang bị đe dọa của đại dương. Đây là cuốn sách đầu tiên của ông, trong quá trình viết, ông nhờ người bạn mới Cormac McCarthy, nhà văn ông gặp tại buổi hội ngộ của Chương trình MacArthur, giúp đỡ biên tập.

McCarthy giành được giải MacArthur đầu tiên năm 1981, khi ấy ông vẫn là nhà văn ít người biết đến nhưng được kính trọng, đang trong quá trình sáng tác "Blood Meridian" (Thiên đỉnh máu). Ông kể lại sau đó ông tham dự mọi buổi gặp mặt của giải MacArthur. Ông cố tình tránh các nhà văn khác tại những sự kiện này, nhưng khi gặp Payne, hai người đã trở nên "gắn bó khăng khít"; Lisa Harrow, vợ góa của Payne, kể lại như vậy sau khi ông qua đời. Đến năm 1986, họ cùng nhau đi du lịch đến Argentina ngắm cá voi.

Payne qua đời ngày 10.6.2023, để lại những hộp tài liệu chưa được phân loại ghi lại tình bạn lâu dài, đầy tính cạnh tranh và sáng tạo của ông với McCarthy, người bằng hữu sống lâu hơn ông ba ngày.

Trong sự nghiệp lâu dài của mình, McCarthy hiếm khi tham gia phỏng vấn và nổi tiếng giữ im lặng về quá trình sáng tạo cũng như cách tiếp cận nghệ thuật. Trong các bản thảo cuốn sách "Among Whales", nằm trong số tài liệu do Payne để lại, hiện đang được chuẩn bị đưa vào một viện nghiên cứu, McCarthy tiết lộ nhiều quan điểm nghệ thuật của mình.


Roger Payne, mặc áo sơ mi xanh và quần tây sẫm màu, đang ngồi ở mũi tàu. Cuốn sách "Among Whales" của Payne — bày tỏ lo ngại về tình trạng đại dương ngày càng ô nhiễm và niềm tôn kính đối với những cư dân to lớn nhất của đại dương — được xuất bản năm 1995.

McCarthy trút xuống cơn mưa logic và kỷ luật lên những câu văn của Payne, thường lãng mạn, da diết nhưng cũng hay bị vòng vo, dài dòng và mang tính thuyết giảng đạo đức do ngọn lửa nhiệt tình thiếu kiểm soát.

"Giản lược và bỏ bớt đi," McCarthy gầm gừ viết trên lề.

"Tối nghĩa, nhưng — mừng thay — chúng ta có thể lược đi càng tốt."

"NẾU nội dung tự hấp dẫn — mà nội dung này quả thực như vậy — thì cố gắng tô điểm thêm hoặc làm cho nó 'hấp dẫn' sẽ phản tác dụng."

"Hãy nhớ lại chính xác sự việc xảy ra."

"Chỗ này diễn đạt không tốt. Nghe giống văn nói. Văn viết phải khác."

"Nếu cho rằng người đọc có trí thông minh thấp, thì nhóm độc giả của ông sẽ chính là người như vậy. Ông thật sự muốn như thế sao?"

"Viết lại: Rõ ràng Trực tiếp Đơn giản Sắc bén Chính xác Ngắn gọn."

"Đây toàn là những từ hoa mỹ."

"Tất cả cần sắp xếp lại. Mở đầu, thân, kết. Đó là tất cả cho một câu chuyện."

"Ừ, Ổn thôi. Ngáp."

"HOAN HÔ! Quay lại với thực tế nào."

"Ông đang thách thức người đọc tìm ra ngoại lệ. Họ sẽ làm được thôi."

"Hoàn toàn không thể giải nghĩa được."

"Chúa ơi, Roger."

"KHÔNG."

Cuốn sách cũng là cuốn cuối cùng của Payne.

Mặc dù gay gắt, McCarthy cũng có lúc khích lệ. "Roger: tôi đọc đoạn này trong nước mắt," khi nói đến đoạn văn tuyệt đẹp Payne viết về Patagonia — Chương 2 trong sách. Ông ấy ký là "Thân mến. C."

Tiểu thuyết của chính McCarthy thường không khoan nhượng và mang tính bạo lực, lời văn trần trụi và khắc nghiệt như chính khung cảnh câu chuyện diễn ra. Câu văn của ông thường không có dấu chấm phẩy hay dấu ngoặc kép. Ông thường tìm thuật ngữ chính xác, ngay cả những thuật ngữ khó hiểu như "riprap" (đá hộc, đá kè) và "animalcule" (vi động vật), sánh ngang với cấp độ của sách hướng dẫn kỹ thuật. Khi đảm nhận vai trò biên tập, McCarthy cũng làm việc với những cột kẻ bằng bút chì tỉ mỉ và sắc nét, thành thạo sử dụng các ký hiệu hiệu đính, giúp đưa mục tiêu của người bạn mình nổi bật lên rõ ràng.

"Tôi hết sức chăm chú tỉ mỉ trong từng chữ cái để hiệu quả khi đọc đạt mức tối đa," ông trấn an Payne qua điện thoại hồi năm 1993.

Cận cảnh chỉnh sửa của McCarthy.


McCarthy trút xuống cơn mưa logic và kỷ luật lên những câu văn của Payne, thường lãng mạn, da diết nhưng cũng hay bị vòng vo, dài dòng và mang tính thuyết giảng đạo đức do ngọn lửa nhiệt tình thiếu kiểm soát.

Từ năm 1992 đến 1993, Payne vội vàng ghi lại các quy tắc của McCarthy giống như sinh viên ghi chép bài giảng, sau đó gõ lại những ghi chú này vào máy tính. Trong một ghi chú, McCarthy trích dẫn Rudyard Kipling — "Có điều ẩn giấu. Hãy đi tìm" — và gợi ý Payne "giữ lại một số thông tin nhất định, cuối cùng tiết lộ ở phần cuối." Trong một ghi chú khác: "Nếu ông muốn đưa ra luận điểm, tốt hơn hết hãy để người đọc tự khám phá ra."

Vào lúc Payne thấy việc chỉnh sửa tốn quá nhiều công sức, McCarthy đưa ra quan điểm có tầm nhìn xa: "Ông bạn phải sẵn sàng bỏ ra thời gian và công sức cần thiết để viết nên được một cuốn sách hay," ông đáp lời, "bởi vì cuốn sách sẽ tồn tại lâu dài, đến tận sau khi lý do không có thời gian để hoàn thiện nó bị lãng quên."

Nguyên tắc — không chỉ về tính rõ ràng — thường xuyên có thể bị vi phạm. Khi Payne thuyết giảng "có rất nhiều hệ sinh thái khác nhau bao gồm cả những đầm lầy có mùi hôi thối cũng như những sa mạc khô cằn tàn bạo mà chúng ta phải tôn trọng như những thứ có quyền bình đẳng với ta," McCarthy cười nhạo ông. "Cá voi xanh không sống sót bằng cách tôn trọng quyền bình đẳng của loài giáp xác," ông viết. "Cá voi ăn chúng. Lại còn quyền của đầm lầy? Thật điên rồ."

Cuộc tranh luận chuyển sang ngôn ngữ. "Tôi nghĩ vấn đề ở đây dường như là bởi ông cứ làm như cá heo có thể nói chuyện," McCarthy khuyên nhủ khi Payne ví hành vi của những loài động vật có vú đó với sự dạy dỗ của con người: "Có lẽ ông nên chỉ ra chúng không nói được."

Cận cảnh trao đổi giữa McCarthy và Payne


Các cuộc thảo luận về khả năng của động vật cũng bộc lộ quan điểm của họ về loài người. Khi Payne, lúc đó đang sống ở London, phàn nàn trong bản thảo, rằng người Anh không bao giờ học được cách "chia sẻ vấn đề", McCarthy cảnh báo ở bên lề rằng "Tôi chia sẻ nỗi bực bội của ông bạn với thái độ khô cứng của họ, nhưng tôi cũng thông cảm với việc Waugh ca ngợi sự thân mật và sợ hãi sự quen thuộc."

Lúc xuất bản sách năm 1995, Payne cắt bỏ câu văn về đầm lầy, đoạn văn chê bai người Anh và nhiều thứ khác theo yêu cầu của McCarthy. Mặc dù dành tặng cuốn sách cho người bạn của mình với lời đề tựa ghi tạc "lòng ngưỡng mộ đối với tài năng của ông ấy", Payne tiếp thu mà không ghi chú thích nhiều nhận xét của McCarthy, thậm chí cả những đoạn văn hoàn chỉnh.

Cho nhận qua lại diễn ra theo hai chiều. Trong lưu trữ của mình, Payne giữ một bản đánh máy không đề ngày có nội dung là kịch bản phim "Cá voi và Con người" của McCarthy. McCarthy đề cập đến "câu chuyện về cá voi" ngay từ năm 1986, nhưng độ tương đồng trong văn bản của kịch bản cho thấy ông ấy biên soạn cùng quãng thời gian sửa bản thảo sách cho Payne khoảng năm 1992 và 1993. Đại học Texas State cũng lưu giữ một bản sao. Kịch bản này chưa bao giờ được sản xuất.

Là tác phẩm lạc quan nhất trong số các tác phẩm của McCarthy, "Cá voi và Con người" là phim hài kịch phong cách Anh-Mỹ lấy bối cảnh tại những khách sạn ven biển Florida, trong ngôi biệt thự trang viên kiểu Ireland thế kỷ 18 và trên những con tàu biển trong giai đoạn 1983 và 1984.

Trong phim, nhà sinh vật biển Guy nghiên cứu cá voi mặc dù anh buồn bã chấp nhận — không giống như Payne — số phận tuyệt chủng của chúng. Đồng hành cùng nhân vật Guy là nhà quý tộc Ireland dễ mến Peter, và bác sĩ người Mỹ đang chán chường John Western, nhân vật này theo khía cạnh nào đó là hình mẫu cho nhân vật Bobby Western, kẻ cô độc đầy lôi cuốn trong tiểu thuyết cuối cùng của McCarthy. Cùng với cô bạn gái Kelly của John, họ suy ngẫm về khả năng giao tiếp và nhận thức của cá voi, bí ẩn về động vật càng làm tăng thêm những khao khát không thể nói ra của con người trên tàu.

Nhân vật Peter có trí nhớ siêu phàm đối với các nhà thơ Ezra Pound và Dylan Thomas nhưng đồng thời — do chấn thương thời thơ ấu — anh ta có ác cảm với ngôn ngữ. Ngôn từ đã tách rời khỏi những vật thể thực tế chúng biểu đạt, anh nói với Guy: "Tôi bắt đầu thấy mọi nỗ lực sử dụng biểu tượng đều là sự xa lạ hóa. Mỗi tượng đài đều là hình ảnh sai lệch."

Ngược lại, cá voi dường như không gặp vấn đề gì trong việc giao tiếp về những trải nghiệm trực tiếp, Guy giải thích. Nước dẫn âm tốt hơn không khí, cho phép đàn cá voi tạo thành "mạng lưới sống" trải dài nhiều dặm, John nói thêm, với niềm thích thú giống như Payne.

Bộ não của cá nhà táng thậm chí còn "lớn gấp bảy lần" so với chúng ta, Guy kinh ngạc, hàm ý về trí tuệ sâu sắc chúng ta chưa khám phá ra. Có lẽ chúng "suy ngẫm về vũ trụ", anh nói. "Tôi biết nghe phi lý. Nhưng liệu có không? Chúng ta có biết được không?"

Trí tuệ không thể hiểu được là chủ đề thảo luận của Payne. Bộ não ấy có thể chứa đựng điều gì? McCarthy cũng từng khai thác điểm này, thông qua ham muốn vô thức của các anh hùng Cornelius Suttree và Alicia Western, với bài luận năm 2017 của ông "The Kekulé Problem" (Vấn đề Kekulé) và với những con ngựa và chó sói trong Bộ ba Biên giới bom tấn thời kỳ thập niên 1990. Như McCarthy từng nói với Payne qua điện thoại năm 1989, trong khi viết "All the Pretty Horses" (Những con tuấn mã) : "Ngôn ngữ không phải dấu hiệu của trí thông minh mà đó là cách duy nhất để chúng ta tư duy."


Bức ảnh: Payne (bên trái) mặc áo đen và sơ mi xanh nhạt đang xem tấm ảnh trên tay. McCarthy, mặc áo khoác xanh và sơ mi sẫm màu, cũng vậy. McCarthy qua đời ngày 13.6.2023 — chỉ ba ngày sau khi Payne qua đời.

Khi họ dần có tuổi ở thập niên 2000, Payne vẫn ghi âm lại các cuộc điện thoại của hai người. Các cuộc trò chuyện xoay quanh những bài báo trên trang Bình sách New York, danh tiếng và vai trò làm cha mới của McCarthy, Herman Melville, W.G. Sebald, Carl Sagan, "tình trạng tuyến tiền liệt của chúng ta", chính trị chủng tộc phức tạp trong vở kịch "The Stonemason" (Người thợ đá) của McCarthy và món mứt cam McCarthy đòi có được từ London (vị cam Seville, thêm vỏ). Về cú va đập ở bãi gỗ Texas khiến ông chảy máu, McCarthy kể với Payne, ông nói với những người chứng kiến đang hoảng sợ: "Tôi không có thời gian đợi xe cứu thương từ El Paso — sẽ chết hết cả mất," sau đó "chỉ quấn một chiếc khăn quanh đầu, vặn chặt khăn lại và tự lái xe đến bệnh viện."

Đến năm 2019, McCarthy, 86 tuổi, chuyển sang lĩnh vực toán học và vật lý, và đang hoàn thành tác phẩm cuối cùng của mình, hai tiểu thuyết song hành "The Passenger" và "Stella Maris", trong khi Payne, 84 tuổi, đang giúp khởi động một dự án cố gắng giao tiếp với cá voi bằng trí tuệ nhân tạo.

Tháng trước, sáng kiến mang tên Project CETI (Cetacean Translation Initiative - Sáng kiến Dịch thuật Cá voi) công bố phát hiện ra toàn bộ kho tàng tiếng lách tách và tiếng rung trong nhóm cá nhà táng.

Nhưng trước khi thành lập dự án năm 2020, Payne nhờ McCarthy chỉnh sửa đề xuất tài trợ của Dự án CETI. "Lý do khiến loài người rơi vào khủng hoảng hiện tại là vì chúng ta luôn đặt nhu cầu con người lên trên nhu cầu của phần còn lại của sự sống," lời kêu gọi hành động ghi ngắn gọn. "Đó là sự mù quáng bao trùm loài người — khuyết điểm chí mạng của chúng ta."

"Đó cũng là cách chúng ta thống trị," McCarthy phản pháo trong một ghi chú được Payne giữ lại. "Roger, tôi thấy không đồng tình với bất kỳ điều gì trong những lời này. Chúng ta ở vị trí hiện tại là nhờ ngôn ngữ biểu tượng. Xong. Hết. Dừng lại. Chấm dứt. Kết thúc câu chuyện." Cuối cùng, kịch bản về cá voi của ông kết thúc bằng một chuỗi những giao thoa sâu sắc thông qua ngôn ngữ của con người: một bài thơ, một lá thư, một bài phát biểu tại Quốc hội.

Bất chấp những lời chỉ trích của McCarthy, trong những ngày trước khi qua đời, Payne đăng một phiên bản của lời tuyên ngôn ấy trên Tạp chí Time — tiếng thét xông trận cuối cùng của một cuộc đời không mệt mỏi bảo vệ động vật.

Chỉ là lần này, Payne giảm bớt cơn giận của mình bằng một cụm giới từ: "... phần lớn là vì chúng ta luôn đặt nhu cầu con người lên trên nhu cầu của phần còn lại của sự sống." Đó là nhượng bộ cuối cùng của Payne đối với người bạn khó tính của mình, và cũng là lần biên tập cuối cùng của McCarthy.
_____
From The New York Times:

Cormac McCarthy Did Not Talk Craft, With One Surprising Exception

Notoriously reluctant to give advice, the author offered his views, and meticulous edits, to a lifelong friend: Roger Payne, the marine biologist who introduced the world to whale song.

https://www.nytimes.com/2024/06/15/books/booksupdate/cormac-mccarthy-roger-payne.html

Tài năng, ma lực, tiền bạc, lừa đảo: Chào mừng đến với Thế giới Mỹ thuật

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Orlando Whitfield (bên trái) và Inigo Philbrick. Philbrick thú nhận trước tòa rằng anh ta đã v...