Search This Blog

Wednesday, October 2, 2024

Những "Chuột Thư Viện" góp phần chiến thắng Thế chiến II

nguồn: New York Times

Trong tác phẩm đầy sinh động "Sách và Dao Găm", nữ sử gia Elyse Graham cứu vớt một nhóm học giả-gián điệp khỏi sự lãng quên.


William J. Donovan, điều phối viên thông tin người Mỹ, được thấy ở đây vào năm 1942, đã tận dụng các khoa nhân văn và khoa học xã hội của các đại học Mỹ để tuyển nhân viên cho Cơ quan Tình báo Chiến lược (Office of Strategic Services - O.S.S.) vừa được thành lập của ông.

Thế giới gián điệp thường được chia thành hai loại: tình báo con người (humint) và tình báo tín hiệu (sigint). Tình báo con người gồm những bí mật thu thập từ các cá nhân và tổ chức, mà họ có thể biết hoặc không. Tình báo tín hiệu là thu thập thông tin kỹ thuật qua việc chặn các bức điện: thư, điện tín, cuộc gọi thoại, và gần đây nhất là email, tin nhắn văn bản, cùng cơn bão tuyết thông tin điện tử.

Nhưng hai trụ cột này lại được xây dựng và hỗ trợ bởi công việc ít hào nhoáng hơn của phân tích tình báo: lọc qua lượng lớn dữ liệu để có cái nhìn rõ ràng hơn về kẻ thù (hoặc đồng minh), kế hoạch và bố trí của họ. Một số tài liệu này được thu thập bí mật, nhưng nhiều tài liệu khác lại đến từ các nguồn mở, được nghiên cứu tỉ mỉ, chắt lọc thành những thông tin ngắn gọn, sau đó chuyển cho các điệp viên, binh sĩ và chính trị gia.

Đây là phần ít hấp dẫn nhất của gián điệp, không phải là trò chơi áo-choàng-và-dao-găm, mà là công việc với tủ hồ sơ và thẻ mục lục – mạng lưới các điệp viên ẩn danh đào bới trong bóng tối. Công việc này tốn nhiều thời gian, phức tạp, thường không được biết đến, nhưng lại quan trọng đối với sự hoạt động hiệu quả của hệ thống tình báo hiện đại.

Elyse Graham, nhà sử học và giáo sư tại Đại học Stony Brook, cố gắng cứu vớt một số "những con ong thợ" của tình báo ra khỏi sự lãng quên bằng cách khám phá đóng góp của họ vào chiến thắng trong Thế chiến II. Bà nhiệt tình lập luận rằng nhiều trong số những người thu thập dữ kiện và phân tích này không phải là gián điệp chuyên nghiệp mà là những học giả Mỹ, giáo sư nhân văn, nhà sử học, thủ thư, nhà nhân chủng học, nghệ sĩ, người yêu sách và chuyên gia nghệ thuật. Đây là lời kêu gọi sự hiểu biết sâu sắc hơn về vai trò của cuốn sách, câu chuyện tưởng tượng, nghệ sĩ, nhà văn, các ngành khoa học nhân văn và những "con chuột thư viện" đã nghiên cứu chúng.

Đây không chỉ là cuộc chiến của những người lính và nhà khoa học. "Đây cũng là cuộc chiến của nhà sử học, của người sưu tập sách, của nghệ sĩ," bà viết. "Đây là cuộc chiến của các giáo sư."

Tháng 6 năm 1942, Cơ quan Tình báo Chiến lược được thành lập bởi William "Wild Bill" Donovan — luật sư, cựu binh Thế chiến I và là một người đam mê sách vở — để điều phối tình báo phía sau chiến tuyến địch. Ngay lập tức ông bắt đầu tìm kiếm tuyển dụng tại các khoa nhân văn và khoa học xã hội của các đại học Mỹ để làm việc trong Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích, những người có đào tạo học thuật (và kiên nhẫn) để thu thập sự thật càng nhiều, càng rộng càng tốt, hiểu, tinh chỉnh và sau đó sắp xếp chúng thành một hình thức sử dụng được.

O.S.S. là cơ quan gián điệp đầu tiên có đủ tài nguyên và năng lượng để phân tích tình báo ở quy mô công nghiệp: Công việc của Nghiên cứu và Phân tích — khai thác những mẩu thông tin quý giá từ khối lượng thông tin không đáng kể — sẽ trở thành nền tảng trí tuệ của C.I.A. trong tương lai.

Cựu Ngoại trưởng Henry Stimson từng ngạo mạn tuyên bố rằng "các quý ông không đọc thư của nhau." Tuy nhiên, tác giả viết, "các quý ông có thể không đọc thư của người khác, nhưng các học giả thì có. Họ rất giỏi về việc đó."

Graham kể câu chuyện qua ba nhân vật chính: Adele Kibre, nhà lưu trữ có bằng Tiến sĩ tiếng Latin từ Đại học Chicago; Joseph Curtiss, giáo sư Anh ngữ tại Yale; và Sherman Kent, giáo sư lịch sử Yale — một nhân vật thô bạo, tục tĩu, người ưa đeo dây đai đỏ và có thể "phi dao giỏi hơn người Sicily."

Trong khi Curtiss thu thập tài liệu đã được xuất bản tại Istanbul trung lập dưới vỏ bọc là thu thập sách cho thư viện Yale, Kibre được cử đến Thụy Điển trung lập (một điểm nóng gián điệp khác) để thu thập và chụp lại tài liệu in, bao gồm nhiều thông tin về Đệ Tam Đế Chế: tài liệu tuyên truyền, các tạp chí khoa học và kỹ thuật, tập sách bất hợp pháp về cách đào ngũ khỏi quân đội Đức, sách in tư nhân, bản đồ, thư mục, danh bạ điện thoại, tác phẩm về hàng không, ngân hàng, dầu mỏ tổng hợp, đóng tàu, thống kê.

Là trưởng phòng Nghiên cứu và Phân tích phụ trách khu vực Âu-Phi ở Washington, Kent chịu trách nhiệm biến khối lượng thông tin thành các câu trả lời cho những câu hỏi cụ thể: số lượng tối ưu của viên đạn trong đạn pháo máy bay, tỷ lệ cao su tổng hợp trong lốp xe hơi của Đức, chiều dài chính xác của các đường ray phụ trên các tuyến đường sắt Morocco. Công việc này đòi hỏi sức chịu đựng gần như siêu phàm đối với sự nhàm chán.

Graham kể tất cả những điều này theo phong cách vui nhộn, đôi khi hơi lộn xộn, trượt vào các câu chuyện về nghề gián điệp nơi các nhân vật chính đơn giản là bịa đặt câu chuyện để lừa địch như trong chiến dịch nổi tiếng "Mincemeat", nơi một xác chết được gán danh tính giả và tài liệu giả để đánh lừa quân Đức về cuộc đổ bộ vào Sicily.

Đôi khi, bà thêm vào những đoạn giả thuyết, các cuộc gặp và những đoạn hội thoại. Nhưng không cần phải hư cấu khi sự thật về gián điệp thời chiến đã khó tin như vậy.

"Chiến tranh có thể đã diễn ra trên các chiến trường, nhưng nó đã được thắng trong các thư viện," bà viết. Đây chính là sự tài tình thực sự của tình báo Đồng Minh: việc sử dụng một loạt các tay nghiệp dư tài năng — những người có tư duy "xoáy nút chai" theo cách gọi của Churchill — nhiều trong số họ rời thư viện để chiến đấu trong cuộc chiến với giấy tờ, sách và học thuật, và khi mọi thứ kết thúc, họ lặng lẽ quay trở lại các khu học viện.

BOOK AND DAGGER: How Scholars and Librarians Became the Unlikely Spies of World War II | By Elyse Graham | Ecco | 400 pp. | $30

The ‘Library Rats’ Who Helped Win World War II

https://www.nytimes.com/2024/09/24/books/review/book-and-dagger-elyse-graham.html

Câu chuyện lịch sử về ẩm thực Trung Hoa, và bữa tiệc mỹ mãn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “Invitation to a Banquet” (“Thiệp mời dự tiệc”) của Fuchsia Dunlop là công trình nghiên cứu văn hóa về nền ẩm thực cực kỳ rộng lớn và thường bị hiểu sai.

“Một cuốn sách dạy nấu ăn thực sự hay,” Jan Morris viết, “thì về mặt tri thức nó còn mạo hiểm hơn cả cuốn cẩm nang tình dục Kama Sutra.” Cuốn sách mới vào loại bậc thầy của Fuchsia Dunlop “Invitation to a Banquet: The Story of Chinese Food” (“Thiệp mời dự tiệc: Câu chuyện về ẩm thực Trung Hoa”) thực chất không phải là một cuốn sách dạy nấu ăn. Nhưng nó có sự liên quan trực tiếp đến dục tính gợi cho ta nhớ đến nhận xét trên của Morris.

Khó mà viết về ẩm thực dài hơn một hoặc hai trang sách mà không thêm nếm những so sánh và ám chỉ đến một dạng hành vi tính dục khác. Ẩm thực và tình dục: phương pháp và sự đa dạng của chúng vay mượn từ cùng một nguồn ngôn ngữ. Những gì ta ăn cũng bộc lộ bản thân ta y như những gì ta làm trên giường, và khi ta già đi thì ăn uống là sự bù đắp cho tình dục.

Những mô tả của Dunlop nghiên cứu mối liên kết này. Những chiếc lá xanh thẫm trên cây cải làn “mượt mà và rũ xuống như mái tóc nàng tiên cá”. Các đầu bếp ở Thiểm Tây rất lành nghề trong việc “thọc ngón cái, đùn ra, bấu véo, nhỏ giọt, giằng giật, căng ra, xoa bóp” sợi mì của họ. Những thực đơn nhằm vào khách hàng phương Tây, với những món ăn rõ rành rành, giống như “các cô gái hộp đêm đang xếp hàng khoe chân”. Mô tả kết cấu thành phần trong những cuốn sách dạy nấu ăn của Trung Quốc gợi cho Dunlop nhớ đến những cảnh trong “Fanny Hill”, cuốn tiểu thuyết khiêu dâm kinh điển. Một món hầm bữa sáng đơn giản “mơi khách bằng ớt và dưa chua”. Nếu tôi được một xu cho mỗi lần Dunlop dùng từ “mê mẩn” hoặc “si mê”, tôi hoàn toàn có thể trả tiền cho 40 phút đỗ xe ở bãi đỗ của một thị trấn nhỏ.

Sự hùng hồn này bổ sung thêm nhân tố con người cho cái vốn là một tác phẩm lịch sử ẩm thực nghiêm túc và mạo hiểm. Là một cuộc điều nghiên về văn hóa, tri thức và chính trị, “Invitation to a Banquet” được xếp ngang hàng với cuốn “The Food of France” (“Ẩm thực Pháp” – ra mắt năm 1958) của Waverley Root và cuốn “High on the Hog” (“Sơn hào hải vị” – ra mắt năm 2011) của Jessica B. Harris. Nó là cuốn từ điển chuyên đề về các giác quan. Cuốn sách nâng Dunlop, nhà văn và đầu bếp người Anh tốt nghiệp Đại học Cambridge, lên tầm cao mới với tư cách là nhà bình luận ẩm thực. Văn phong của chị cũng phong phú và sinh động như văn phong của M.F.K. Fisher và Betty Fussell. May thay, chị thiếu sự tự tin của Fisher, và có sự sôi nổi của Fussell.

Nếu bạn quan tâm đến ẩm thực, hẳn bạn từng nghe danh Dunlop. Chị là sinh viên kỳ cựu, và là người làm sáng tỏ ý nghĩa của nền ẩm thực Trung Quốc cho độc giả phương Tây. Chị là người phương Tây đầu tiên được đào tạo tại Học viện Ẩm thực Tứ Xuyên. Chị giành được bốn giải thưởng James Beard. (Như tất cả mọi cư dân New York sành sỏi, Beard biết rằng lang thang ở khu phố Tàu để ăn trưa là phần hay ho nhất trong lúc làm nhiệm vụ giám khảo.) Chị viết nhiều cuốn sách, trong đó có “The Food of Sichuan” (“Ẩm thực Tứ Xuyên”), “Every Grain of Rice” (“Từng hạt gạo”) và cuốn hồi ký “Shark’s Fin and Sichuan Pepper.” (“Vi cá mập và ớt Tứ Xuyên”). Cuốn sách mới này là tác phẩm để đời của chị.

Dunlop tiếp cận ẩm thực Trung Hoa với sự hiếu kỳ, lòng tôn trọng và nhiệt huyết hòa quyện với nhau. Lorrie Moore viết: “Bản lĩnh là một phẩm chất đẹp đẽ ở một con người”, và Dunlop có rất nhiều phẩm chất đó. Quan trọng là chị không bị hoang mang lo sợ bởi chủ đề của mình. Chị gọi ra những thủ đoạn mà chị lên án, chẳng hạn như việc Trung Quốc rất thèm muốn các hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã. Thế nhưng, chị viết:

Nhiều năm khéo léo cân bằng giữa “phương Tây” và Trung Quốc biến tôi thành một nhà ngoại giao dày dạn, người theo chủ nghĩa tương đối về văn hóa, người luôn giữ thái độ trung lập và hết lòng kìm nén những lời phán xét. Đó là cái mà sự hòa nhập vào nền văn hóa khác gây ra cho ta. Đó có lẽ là lý do vì sao những người như tôi làm thế: phá vỡ những quan điểm không gì lay chuyển nổi của chúng ta và nhìn mọi thứ qua con mắt hình lăng kính của một con côn trùng, từ nhiều góc độ.

Dunlop chia cuốn sách của mình thành bốn phần: Lò sưởi, Trang trại, Nhà bếp và Bàn ăn. Các phần này lại được chia nhỏ thành 28 chương, hầu hết các chương đều phân tích một công thức hoặc một phương pháp: Gà Trùng Khánh xào ớt khô, Mì xắt bằng dao, Đậu phụ Tứ Xuyên, Cùi bưởi nấu với trứng tôm, Thịt kho tàu, Cá vược thái lát và Canh Thủy khiên, Tiểu long bao hấp, v.v… Đa phần các chương đều bắt đầu bằng một bữa ăn, hay một chuyến thăm trang trại hoặc nhà máy sản xuất rượu vang, hoặc thăm một đầu bếp đáng kính. Rồi từ đó chị mở rộng ra lịch sử của những gì nằm trên đĩa ăn của chị.

Muốn hiểu khủng hoảng khí hậu thực chất là gì, hãy hỏi loài vật

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“The End of Eden” (“Thiên đường sắp mất”) là khúc bi ca đầy xúc cảm và rùng rợn của Adam Welz cho sự đa dạng sinh học như chúng ta từng biết.

Bạn sẽ không thấy cái kết có hậu từ cuốn sách này.

Loài này nối tiếp loài khác. Quần xã này nối tiếp quần xã khác. Lục địa này nối tiếp lục địa khác. Cái thế giới mà nhà báo Nam Phi chuyên viết về môi trường là Adam Welz mô tả đang ở giai đoạn cuối của sự sụp đổ. Giọng điệu của cuốn sách – ít nhất là cho đến chương cuối mang tính tự bạch – rất đắn đo cân nhắc và chính xác, khí độ điềm tĩnh, không thể hiện sự phẫn nộ mà thay vào đó là sự cẩn trọng chú ý đến tính chính xác trong mô tả và phân tích. Welz ngắm nhìn những lò xo và bánh xe của cơ-thể-trái-đất quay tách khỏi nhau thành rời rạc vô dụng. Và hiệu ứng tích tụ lại rất tàn khốc.

Những cá thể con người hầu hết không có mặt trong câu chuyện này. Chẳng có những nhà khoa học anh hùng hay những chủ giếng dầu tệ hại. Thế vào chỗ của họ, những sinh vật khác chiếm vị trí trung tâm, và động lực chi phối là thế này: Cái thế giới sống này đã tiến hóa theo nhiều cách phức tạp để thích nghi và hưởng lợi từ các điều kiện hiện hành của hành tinh. Những điều kiện đó vẫn luôn thay đổi linh hoạt, song việc đốt nhiên liệu hóa thạch của chúng ta trong hai thế kỷ qua đột nhiên đẩy tất cả hệ thống rơi vào hỗn loạn. Suốt chiều dài lịch sử nhiều tỷ năm, Trái đất chưa bao giờ đổi khác nhiều hơn là vào cuối kỷ băng hà sau cùng –trùng vào lúc chúng ta bắt đầu đời sống hoang dã của mình khoảng 11.700 năm trước – và chúng ta hiện đang sống trong tình trạng hỗn loạn mà chúng ta tạo ra. Chúng ta đã uổng phí sự hoàn hảo mà quá trình tiến hóa truyền lại cho chúng ta.

Tầm phủ sóng xa rộng của Madona

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn tiểu sử do Mary Gabriel viết thấu đáo thế nào thì chủ thể của nó cũng quy củ y như vậy. Nhưng trong việc không ngừng bảo vệ siêu sao đó, tinh thần tự giải phóng khỏi mọi chuẩn mực của Madona ở đâu?

“Tôi muốn ở một mình” là câu nói nổi tiếng của nhân vật vũ nữ do Greta Garbo thủ vai trong bộ phim “Grand Hotel”, câu trích dẫn thường xuyên và nói đúng ra thì chỉ phần nào gắn liền với nữ diễn viên này sau khi cô rút lui khỏi cuộc sống người của công chúng. Garbo đứng đầu danh sách các minh tinh Thời Hoàng kim của Hollywood trong bài hát “Vogue”, một trong những bài hát thành công nhất của Madonna, nhưng đã lâu nay ngôi sao nhạc pop này dường như là hiện thân ngược lại hoàn toàn của câu châm ngôn trên. Nàng muốn được mọi người vây quanh, cứ như thể với âm thanh vòm nổi Dolby.

Giám đốc phòng thu Seymour Stein nhận xét: “Thậm chí trước khi Madonna có người quản lý, cô ấy đã có cả một đoàn giúp việc và ca sĩ hát phụ tháp tùng cô đi khắp nơi”.

Mặc dù là ca sĩ solo đúng nghĩa, nhưng Madonna được các vũ công trợ giúp từ khi bắt đầu sự nghiệp hồi đầu thập kỷ 1980. Nàng có sáu người con: hai con đẻ, bốn con nuôi gốc Malawi. Nhiều người khác tự coi mình là đứa con tinh thần của nàng: những người đồng tính nam mà nàng là bà mẹ bảo trợ của họ; những nữ nghệ sĩ trẻ hơn mà nàng đã truyền cảm hứng cho họ.

Và nàng đã đi vòng quanh thế giới với đoàn tùy tùng linh hoạt gồm bạn bè, nhà văn, nhà sản xuất, đạo diễn, nhà quản lý, nhiếp ảnh gia, chuyên gia quảng cáo, phóng viên và người hâm mộ, tất cả đều tề tựu đông đủ một cách hữu ích trong cuốn tiểu sử mới đồ sộ và đầy khiêu khích do Mary Gabriel viết về nàng: bức tường thành kiên cố được xây từng viên gạch một ngăn cản bất kỳ kẻ phỉ báng nào đang loi ngoi trong con hào bao quanh lâu đài của nàng.

“Madonna: A Rebel Life” (“Madona: Một đời nổi loạn”) là một trong những cuốn sách bạn phải tính độ dài bằng cân chứ không phải trang: nặng gần 1,5 cân, trọng lượng này sẽ nặng hơn nếu nhà xuất bản không quyết định đăng chú thích và thư mục trực tuyến thay vì in kèm. Nó sẽ không đặt vừa chiếc kệ nhỏ trên máy tập StairMaster ở phòng tập gym – máy tập thể dục cổ điển của Madonna – tuy nhiên rốt cuộc bạn có thể nâng nó lên để tập tạ tay.

Thay vì tập tạ tay, nếu bạn ngẫu nhiên bước vào một lớp thể dục nhịp điệu, không những có khả năng cao là giáo viên hướng dẫn sẽ phát một bài hát trong danh mục của Madonna mà có thể cô giáo đó còn đeo một chiếc mic có tai nghe – và đó cũng là đúng kiểu Madonna. Như Gabriel lưu ý, dù công nghệ này được các phi công và Kate Bush sử dụng trước đó, nhưng chính nhân vật của chị đã biến nó thành công nghệ đại chúng trong chuyến lưu diễn “Blond Ambition” năm 1989.

Tuy nhiên, người phụ nữ ra đời năm 1958 với tên khai sinh là Madonna Louise Ciccone, cùng năm với Prince và Michael Jackson, lại chẳng phát ngôn gì dành cho cuốn sách này. Tiếng nói của nàng được dẫn truyền từ nhiều cuộc phỏng vấn trước đó, từ những buổi biểu diễn được thu âm và bài đăng không thường xuyên trên Instagram, nơi mà ngay từ những ngày đầu đại dịch nàng cực lực phản đối video “Imagine” của Gal Gadot bằng video quay cảnh nàng khỏa thân trong bồn tắm giữa những cánh hoa hồng bồng bềnh, tuyên bố rằng Covid-19 là “sự cân bằng tuyệt vời.”

Lần Gabriel tiếp cận gần nhất với Madonna bằng xương bằng thịt là nửa tá cuộc trò chuyện với anh trai nàng, Christopher Ciccone, tác giả cuốn hồi ký “Life With My Sister Madonna” (“Sống với em gái Madona của tôi”) bán rất chạy năm 2008; cuốn hồi ký này chí ít đã gây ra sự bất hòa nhất thời giữa hai anh em, những người cộng tác chuyên nghiệp lâu năm. (Cảm giác bị phản bội của Madonna khó có thể đi đôi với sự bảo vệ đầy nhiệt huyết của nàng đối với quyền tự do biểu đạt cá nhân.)

Gabriel cũng nói chuyện với hơn 30 nguồn tin khác, thật ngạc nhiên là rất ít nguồn liên quan đến phạm vi tác phẩm, và đào bới ra vài mẩu thông tin thú vị được lưu trữ, chẳng hạn như Norman Mailer, tại bản thảo đầu tiên trong số hơn 200 bản mà ông viết cho mục tiểu sử của tạp chí Esquire năm 1994, mô tả Madonna là người Mỹ gốc Ý “bé tẹo” (ông dùng một từ có tính miệt thị dân tộc thay vì từ này) “với trái tim được hình thành từ sự táo bạo của hàng trăm tổ tiên nông dân”.

Làm cách nào một khẩu súng được chế tạo để chiến đấu lại tìm đường đến được với hàng triệu gia đình?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “American Gun” (“Khẩu súng Mỹ”) của Cameron McWhirter và Zusha Elinson kể lại chi tiết lịch sử khốc liệt của khẩu súng trường AR-15 mà không hề tô vẽ.

Theo lời kể của Cameron McWhirter và Zusha Elinson trong “American Gun”, câu chuyện về khẩu súng trường AR-15 khét tiếng này là một phiên bản của Frankenstein, với nhà phát minh lỗi lạc tên là Eugene Stoner trong vai Victor Frankenstein, người tạo ra con quái vật đó. Là “người thợ nghiệp dư thích mày mò” không có bằng đại học, Stoner có trí tưởng tượng không ngơi nghỉ và năng khiếu trực quan về kỹ thuật, thôi thúc ông phác thảo thiết kế ở khắp mọi nơi, kể cả trên khăn trải bàn ở nhà hàng. Vào thập kỷ 1920, sống ở Thung lũng Coachella của California khi còn thơ ấu, cậu bé Stoner đi săn cùng cha và bị ám ảnh bởi “đủ loại vật thể có thể bắn ra được”.

Dù cuối cùng Stoner đã thai nghén một loại vũ khí làm thay đổi thế giới, song ông không thể tìm tòi để hiểu được những hậu quả tiềm ẩn của nó. Ông muốn binh lính Mỹ có loại súng hiệu quả nhất có thể có được, loại súng có khả năng giúp họ nhanh chóng tiêu diệt một nhóm Cộng sản. Câu chuyện về thành tựu vĩ đại của ông và hậu quả hủy diệt của nó tạo thành tâm điểm cho cuốn sách của McWhirter và Elinson, một tác phẩm bậc thầy về tường thuật lịch sử và phóng sự nguyên bản.

Cho đến thời Chiến tranh Triều Tiên, lính Mỹ vẫn sử dụng khẩu M1 nặng nề khủng khiếp, loại vũ khí chính xác cần có băng đạn tám viên và bắn ra những viên đạn to. Năm 1950, sau một trận đánh hồi đầu cuộc chiến, khi lính Mỹ bị áp đảo bởi lực lượng đông hơn của Bắc Triều Tiên, hiển nhiên khẩu súng trường này không còn hữu dụng nữa.

Stoner, người từng là lính thủy đánh bộ trong Thế chiến II, đầu quân cho một tập đoàn sản xuất van máy bay, nơi một kỹ sư thiết kế chăm nom dạy dỗ anh, cho anh học việc. Tình trạng không được đào tạo chính quy biến anh thành người sáng tạo hơn và bớt thủ cựu hơn những đồng nghiệp được đào tạo. Khi có thời gian rảnh rỗi, anh lao vào sứ mệnh trong gara của mình là cải tiến khẩu M1 thô vụng. Năm 1954, cuộc gặp gỡ tình cờ với một doanh nhân lắm mưu nhiều kế dẫn đến việc thành lập Armalite, hãng sản xuất súng đạn này dưới sự chỉ đạo của Stoner sẽ chế tạo khẩu AR-15 và cố gắng thuyết phục quân đội sử dụng nó.

Loại vũ khí bắn rất nhanh này được cấu thành từ nhôm, sợi thủy tinh và nhựa, nặng khoảng 2,5 kg khi chưa nạp đạn. Nó có một hệ thống nạp đạn kiểu mới hoạt động bằng khí nén của chính khẩu súng và một báng súng độc đáo giữ cho khẩu súng nhằm đúng mục tiêu. Nó có thể chuyển đổi giữa cài đặt bán tự động và hoàn toàn tự động. Đạn của nó nhỏ và bắn ra với tốc độ cao. Khi một viên bắn trúng cơ thể con người, theo lời các tác giả, “nó sẽ chậm tốc độ lại và giải phóng năng lượng”. Không giống như viên đạn cỡ nòng lớn của khẩu M1 có xu hướng xuyên thẳng qua người, viên đạn của khẩu AR-15 trở nên dễ thay đổi về lý tính khi găm vào và “xé nát cơ thể như một cơn lốc xoáy, xoắn ốc và xoay nghiêng khi nó phá hủy các cơ quan, mạch máu và xương cốt”.

Bất chấp sự tàn khốc hiển nhiên của loại vũ khí này, Armalite không kiếm được hợp đồng quân sự lớn nào. Năm 1959, hãng sản xuất súng Colt mua lại quyền sản xuất và cấp giấy phép con cho khẩu AR-15 của Stoner và hệ thống nạp đạn bằng khí nén của anh. Colt may mắn hơn với phiên bản khẩu súng trường của mình, phiên bản mà các lực lượng vũ trang gọi là M16. Nó được trang bị băng đạn 20 viên, và hồi năm 1966 quân đội đặt mua hơn 400.000 khẩu súng loại này cho binh lính.

Với cách diễn đạt điềm tĩnh, chính xác cho phép nghiên cứu toàn diện của các tác giả tỏa sáng, cuốn “American Gun” làm sáng rõ rằng chức năng quan trọng nhất của khẩu AR-15 là tiêu diệt kẻ thù với khả năng nhanh nhất. Khẩu súng này không dùng cho mục đích dân sự. Điều đó không ngăn cản hãng Colt tiếp thị tới những người săn bắn một phiên bản bán-tự-động – khẩu "Sporter" – có ổ đạn năm viên. Khẩu súng này không được ưa chuộng và hãng chỉ sản xuất vài nghìn chiếc mỗi năm. Nhưng năm 1977, khi bằng sáng chế của Stoner hết hạn, quan điểm đó đã thay đổi.

Một người xa lạ giàu có muốn cho bạn toàn bộ số tiền của anh ta. Cạm bẫy đấy.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Trong cuốn Anansi's Gold (“Vàng của Anansi”), Yepoka Yeebo đào sâu đến tận gốc rễ một vụ lừa đảo lừng danh – và người đàn ông đã trốn thoát được sự trừng phạt hàng thập kỷ.

Hãy bảo tôi đừng kể nữa nếu bạn đã nghe chuyện này: Một người xa lạ cần thu hồi khoản tiền bị mắc kẹt trong một ngân hàng. Nhưng để tiếp cận được số tiền khổng lồ này, anh ta cần tiền tàu xe đi lại. Và để đáp ứng khoản chi phí này cũng như các phí tổn hành chính cần thiết khác nhằm mở khóa gia tài này, bạn có vui lòng giúp anh ta một khoản đầu tư nhỏ được không? Bạn sẽ được đền đáp xứng đáng cho sự hào phóng của mình.

Trò này được gọi là lừa đảo tạm ứng chi phí, hoặc “419”.

Ngày nay, các vụ lừa đảo kiểu này thường nhằm vào người già và người không-hiểu-biết-gì-về-mạng. Nhưng hồi xưa có một người đàn ông tên là John Ackah Blay-Miezah đã lừa được một cơ số đáng kể những người lõi đời vào một vụ điên rồ như vậy, họ hết lòng trông đợi khi vụ đầu tư kết thúc, khoản tiền đầu tư ban đầu sẽ được nhân 10 lần.

Nạn nhân gồm cả các nguyên thủ quốc gia, chính trị gia và doanh nhân. “Những người tin rằng Blay-Miezah là kẻ lừa đảo”, vị đại sứ Mỹ tại Ghana viết cho Henry Kissinger, “đang lo rằng hắn ta rất có thể có tiền và thế thì họ có vẻ sẽ là những kẻ cực kỳ ngu ngốc”.

Câu chuyện “Anansi’s Gold” hấp dẫn của Yepoka Yeebo phác thảo những nét chính về cuộc đời của Blay-Miezah, làm sáng tỏ cách hắn ta thực hiện những hành vi lừa đảo nhiều năm trời trong lúc sống xa hoa một cách đáng kinh ngạc ra sao. Là nhà báo tự do, tác giả đào sâu những kho lưu trữ tài liệu khắp Đại Tây Dương, bới tung những vụ án hình sự và thực hiện những cuộc phỏng vấn với các nạn nhân cũng như các cộng sự của hắn, bằng vào đó chị kể cho chúng ta không chỉ về Blay-Miezah mà còn về cái thế giới đã tạo điều kiện cho hắn phát đạt. Yeebo viết: “Họ nhìn thấy Blay-Miezah, trong trang phục một ông chủ sang trọng, đang thêu dệt một câu chuyện về châu Phi đen tối nhất, khối tài sản nhiều vô kể và một nhà lãnh đạo tham nhũng. Và bởi vì câu chuyện đó – và người đàn ông đó – vừa khớp với những ý niệm có sẵn trong đầu họ như khớp mộng, nên họ đã bịa nốt phần còn lại của câu chuyện cho chính mình.”

Tuy có một số phiên bản về cách dàn dựng vụ lừa đảo đầu tiên, nhưng đây là phiên bản phổ biến nhất: Năm 1972, trong phút lâm chung – chuyện là thế đấy – vị tổng thống đầu tiên của Ghana là Kwame Nkrumah tiết lộ ông ta đã giấu hàng chục ngàn thỏi vàng và lượng tiền mặt lên đến nhiều triệu đồng trong những hầm chứa tại ngân hàng ở Thụy Sĩ. Kho báu này được ủy thác mà chỉ riêng người bạn tâm giao của ông ta là Blay-Miezah mới có thể tiếp cận được. Một khi các điều kiện ủy thác được đáp ứng, khoản tiền đó sẽ được lấy ra, phần lớn dành để phát triển quốc gia Ghana. Phần còn lại sẽ thuộc về Blay-Miezah trung thành – và các nhà đầu tư của hắn.

Yeebo giải thích: “Ngay sau khi giành độc lập, trên thực tế đã có âm mưu mang kho vàng dự trữ của Ghana ra khỏi đất nước này”. Chị kể chi tiết về cách quản lý quỹ sai lầm vô phương cứu chữa của chính quyền thuộc địa Anh. Cảnh khốn cùng khiến người ta nảy ra câu hỏi tất cả tiền bạc đã đi đâu – cũng chừa lại vừa đủ lý do để nghi ngờ rằng câu chuyện của Blay-Miezah có thể là sự thật.

Minh tinh màn bạc người Mỹ gốc Hoa đầu tiên và cái giá của danh vọng chói ngời

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“Daughter of the Dragon” (“Long nữ”), cuốn tiểu sử mới về Anna May Wong nữ diễn viên chính trong bộ phim cùng tên, được dự định như một hình thức phục hồi và lật lại.

Theo nhà sử học điện ảnh Kevin Brownlow, đây là “một trong những bộ phim phân biệt chủng tộc nhất từng được sản xuất ở Mỹ”. Bộ phim “Old San Francisco” (“San Fransisco thời xưa”, trình chiếu năm 1927) có một nam diễn viên da trắng đóng vai một nhân vật phản diện Trung Hoa đội lốt một người đàn ông da trắng (bạn hiểu chứ?) định bán một cô gái da trắng vô tội làm gái mại dâm da trắng trước khi hắn bị đè bẹp bởi một trận động đất rất đúng lúc. Trước khi cái kết khủng khiếp của hắn xảy ra, kế hoạch hiểm độc của hắn được một nhân vật châu Á mà ta chỉ biết mỗi biệt danh là “đóa hoa phương Đông” trợ giúp, nhân vật này do diễn viên chuyên đóng vai cô gái ngây thơ có tên là Anna May Wong thủ vai.

Như Yunte Huang nhận định trong cuốn “Daughter of the Dragon” – câu chuyện ông kể về cuộc đời của Wong và thời đại mà cô sống – Hollywood bị phong cách ngoại lai của khu phố Tàu ám ảnh, tuy vậy vai diễn dành cho diễn viên châu Á lại cực kỳ ít ỏi; vì vậy khi Wong, một cô gái sinh ra ở tiệm giặt là của cha mình tại Los Angeles năm 1905, được phân nhiều vai như thế là điều lại càng đặc biệt hơn. Sự nghiệp của cô trải dài từ phim câm, phim nói và cuối cùng là truyền hình. Cô biểu diễn tại các chương trình tạp kỹ và sân khấu trình diễn. Cô sống ở châu Âu một thời gian ngắn hồi cuối những năm 1920, nơi cô gặp triết gia và nhà phê bình văn hóa Walter Benjamin (người gọi đùa cô là “một phong cách Trung Hoa xuất xứ Miền Tây”) và được chụp ảnh cùng Leni Riefenstahl và Marlene Dietrich (người sau đó sẽ xuất hiện cùng Wong trong bộ phim “Shanghai Express” (“Chuyến tàu tốc hành đi Thượng Hải”). Wong thậm chí còn biểu diễn tại nhà hát West End ở London, gây ấn tượng với các nhà phê bình bằng vũ điệu của cô trong khi bạn diễn của cô – chàng diễn viên Laurence Olivier trẻ tuổi – bị chỉ trích vì diễn xuất dở tệ.

Từ những lá bài Tarot đến thiết kế tối giản, chúng ta không đừng được việc dự đoán tương lai

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Trong cuốn “A Century of Tomorrows” (“Một thế kỷ trong tương lai”), tác giả Glenn Adamson cho ch...