Search This Blog

Friday, October 4, 2024

Vị bác sĩ thú y nhận khám bệnh tại gia — và tại cả những căn penthouse sang trọng

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh


Trong cuốn hồi ký "Pets and the City" (Thú cưng và Phố thị), tác giả Amy Attas hồi tưởng lại ba thập kỷ chăm sóc động vật (và cả con người) ngay tại nhà họ.

Bức ảnh có hình Amy Attas, bác sĩ thú y, đang bế chú chó nhỏ màu đen, trong trang phục sơ mi ngắn tay màu trắng, đeo ống nghe quanh cổ, mái tóc muối tiêu buông xõa ngang vai.

"Khi những đứa trẻ khác chơi với búp bê, tôi lại chơi bác sĩ thú y," Amy Attas kể lại. "Thời thế hồi ấy khác lắm, bác sĩ nhi khoa của tôi thực sự tặng cho tôi ống tiêm y tế đã qua sử dụng, tôi gắn kim dài vào, đổ đầy nước rồi tiêm cho thú nhồi bông của tôi."

Nếu bạn từng cố gắng nhét con thú đang gào rít, cào cấu, giãy giụa và tè dầm lung tung vào túi đựng mèo, bạn sẽ đánh giá cao cách bác sĩ Amy Attas hành nghề thú y: đến tận nhà khám bệnh.

Attas chứng kiến đủ mọi điều, từ những căn hộ penthouse sang trọng đến những ngôi nhà tác giả miêu tả trong cuốn hồi ký mới, "Pets and the City", là "bẩn thỉu đến mức chỉ hít thở không khí ở đấy cũng làm tôi sợ chết khiết." Tác giả từng chụp X-quang cho chú chó terrier nuốt phải nhẫn sapphire. Điều trị cho chú lợn bụng phệ của một nhà sản xuất phim khiêu dâm. Billy Joel rất biết ơn tác giả đến chăm sóc chú chó pug ba chân màu đen của ông; Cher thì không vui cho lắm, sau khi chú chó cứu hộ của cô được chẩn đoán mắc bệnh ghẻ sarcoptic, căn bệnh này có thể lây sang người. Attas viết, "Cher tung áo choàng tắm để lộ toàn bộ thân hình tuyệt vời của mình," và hỏi, "vết phát ban trên người có giống như thế này không?"

Phần lớn bệnh nhân của Attas — "bệnh nhân của tôi là chó và mèo; khách hàng của tôi là con người" — thuộc sở hữu của những người bình thường.

"Cho dù tôi có cắt móng chân cho mèo của tỷ phú hay trò chuyện với người gác cửa tòa nhà về chứng khập khiễng con chó nhà ông ấy mắc phải, tôi đều đối xử với mọi khách hàng như nhau, bởi vì ai cũng đều yêu thương thú cưng của họ hết lòng," tác giả viết. "Tình yêu không phân biệt địa vị xã hội hay tài khoản ngân hàng."

Tháng trước, Attas trò chuyện với tờ The New York Times về công việc, cuốn hồi ký và những điều tác giả mong muốn nhiều người biết hơn về việc sống chung với những người bạn (hầu hết là) bốn chân. Cuộc trò chuyện được biên tập cho ngắn gọn và rõ ràng.

Trước tiên, vì sao không có nhiều bác sĩ thú y đến khám bệnh tại gia?

Khám chữa bệnh tại nhà khó khăn hơn nhiều so với làm việc trong bệnh viện. Tôi thường xuyên mất 10 tiếng mỗi ngày ngồi trên ghế sau xe hơi. Tôi ăn sáng và ăn trưa ở đó luôn. Bạn phải lên kế hoạch các điểm dừng vệ sinh. Tuy vậy, bệnh nhân của tôi thì thấy thoải mái hơn khi được ở nhà.

Với lịch trình dày đặc như vậy — lên đến 12 cuộc gọi khám mỗi ngày — điều gì khiến bà quyết định viết sách?

Tôi nhận ra mỗi ngày về nhà, tôi đều nói với chồng mình, "Anh sẽ không tin nổi chuyện xảy ra hôm nay đâu", điều đó cho thấy trải nghiệm của tôi khác biệt so với bác sĩ thú y khác.

Khi nhìn lại sự nghiệp, ký ức đầu tiên hiện lên trong tâm trí bà là gì?

Một vị khách hàng mới có chú chó già và muốn lên kế hoạch kiểm tra định kỳ để theo dõi sức khỏe cho nó. Khi tôi bấm chuông cửa, tôi không nghe thấy tiếng chó sủa, điều này rất bất thường. Sau đó, cửa mở ra và không có ai ở đó. Cảm giác hơi rùng rợn. Tôi thấy bệnh nhân của mình tự mở cửa nhờ cái ròng rọc trong miệng. Từ phòng bên kia, tôi nghe thấy tiếng ai đó vọng ra, "Tôi ở đây! Butter sẽ dẫn cô vào."

Khách hàng của tôi mắc căn bệnh khiến cơ thể suy yếu. Khi tôi gặp cô ấy, cô đã bị liệt hai chân; cuối cùng sau này bị liệt cả tứ chi. Butter là chó hỗ trợ của người chủ. Tôi hoàn thành việc kiểm tra, và người chủ ra lệnh cho Butter mang đến túi xách cho mình. Cô chó này có vốn từ vựng hơn 100 từ, có khả năng một mình nó làm nhiệm vụ chăm sóc cho chủ nhân vài giờ trong ngày để cô ấy có thể duy trì sự độc lập.

Joan Rivers giúp bà xây dựng sự nghiệp như thế nào?

Tôi từng làm việc tại một bệnh viện thú y và Joan là khách hàng VIP. Một ngày nọ, bà ấy đến tiêm phòng cho chó và ông chủ tôi nói, "Quý bà Rivers, không cần chờ đợi. Tôi có thể tiếp bà ngay bây giờ." Và bà ấy nói, "Không sao đâu, tôi muốn đợi Amy." Cô nhân viên lễ tân chứng kiến ông chủ tôi tức đến xì khói.

Rốt cuộc khi ông ấy sa thải tôi, Joan gọi tôi và nói, "Có chuyện gì vậy?" Tôi hỏi bà ấy muốn tôi kể vắn tắt cho nhanh hay kể chi tiết, thế là bà ấy đáp, "Tôi muốn biết mọi chi tiết và tôi sẽ đảm bảo tất cả mọi người ở Khu Upper East vùng Manhattan đều biết mọi chi tiết."

Khách hàng nên mong đợi điều gì ở động vật giải cứu?

Đầu tiên, tôi khuyên bạn nên kiên nhẫn. Giống như khi người ta nói "Tôi nghĩ mình muốn có con", họ không thể có con ngay ngày hôm sau. Thứ hai, bạn muốn gì ở thú cưng? Bạn muốn bạn đồng hành cùng tập chạy hay cùng nằm trên ghế sofa? Thứ ba, bạn có bao nhiêu thời gian và tiền bạc? Bạn có muốn thú cưng lông dài bạn phải chải chuốt hằng ngày không? Đây là những điều mọi người thường không nghĩ đến khi nhìn thấy chú chó con dễ thương. Cuối cùng, bạn cần có cảm giác gắn kết với con vật này. Nếu không, tìm thú cưng khác cũng không sao.

Từng chứng kiến tận mắt những nỗi đau khổ rất lớn. Làm thế nào bà có thể vượt qua về mặt cá nhân?

Khi còn là bác sĩ thú y trẻ, tôi được gọi đến tiêm thuốc an tử cho một thú cưng tôi chưa từng gặp trước đây. Gia đình nói với nó họ yêu thương nó biết bao, nó quan trọng đến thế nào, họ sẽ nhớ nó nhiều ra sao. Họ khiến tôi rơi nước mắt vì họ nói đúng những gì tôi sẽ nói với thú cưng của mình. Khi tôi hoàn thành, một bác sĩ lớn tuổi hơn nói, "Tôi đảm bảo cô sẽ vượt qua được chuyện này." Tôi tự nhủ, "Ngày nào tôi vượt qua chuyện này, thì tôi không nên theo nghề này nữa."

Vì sao mối quan hệ của chúng ta với động vật lại quan trọng đến vậy?

Thú cưng có khả năng tuyệt vời giúp chúng ta bình tĩnh. Trở về nhà sau một ngày căng thẳng và được một sinh vật nhỏ bé yêu thương bạn vô điều kiện chào đón — điều này khiến bạn cảm thấy khá hơn nhiều. Động vật chấp nhận chính con người chúng ta.
_____
Elisabeth Egan is a writer and editor at the Times Book Review. She has worked in the world of publishing for 30 years. 

From The New York Times:

This Veterinarian Makes House — and Penthouse — Calls

In her memoir, “Pets and the City,” Amy Attas reflects on three decades of caring for animals (and, by extension, humans) right in their own homes.

https://www.nytimes.com/2024/06/19/books/pets-and-the-city-amy-attas.html

Vì sao chế độ chuyên chế lại phát triển mạnh?

Là do kinh tế, ngốc ạ.

nguồn: nytimes

biên dịch: nguyễn quỳnh anh

Trong cuốn “Autocracy, Inc.” (Tập đoàn chuyên chế), nhà sử học đoạt giải Pulitzer bàn về việc các tổ chức tài chính và thỏa thuận thương mại góp phần lan truyền chế độ chuyên quyền trên khắp thế giới.

[Tổng thống Nga Vladimir V. Putin, giữa, và Igor Sechin, CEO công ty dầu mỏ Rosneft của Nga, bên phải, năm 2023.]

Có hiện tượng mới đang xảy ra trong thế giới của những người bị áp bức, theo nhà sử học Anne Applebaum. Nếu như mâu thuẫn ngầm của thế kỷ 20 diễn ra giữa các “khối” đồng minh chính thức có liên kết về mặt ý thức hệ, thì giới lãnh đạo chuyên chế ngày nay đa dạng hơn—pha trộn giữa những người tự cho là theo chủ nghĩa Marx, người mị dân phi tự do, băng đảng tội phạm tham nhũng, bạo chúa kiểu cũ và những kẻ thần quyền kiểu mới.

Tất nhiên, họ có cùng quan điểm nếu không muốn nói là cùng hệ tư tưởng, trong đó chủ nghĩa quốc tế tự do là được coi là vỏ bọc cho chủ nghĩa đế quốc, là phương tiện để Washington và Brussels áp đặt lợi ích và văn hóa suy đồi (đặc biệt là thái độ khoan dung đối với nhóm LGBTQ) lên phần còn lại của thế giới. Nhưng tác giả Applebaum cho rằng các nhà lãnh đạo chuyên chế ngày nay chủ yếu gắn kết thông qua “thỏa thuận chứ không phải hệ tư tưởng”. Nhờ hệ thống tài chính toàn cầu mờ ám, họ thực hiện hoạt động buôn bán sôi nổi đối với công nghệ giám sát, vũ khí và khoáng sản quý giá, rửa tiền bẩn cho nhau và thông đồng để trốn tránh các lệnh trừng phạt của Mỹ. Tác giả gọi đây là “Autocracy, Inc.” (Tập đoàn chuyên chế)

Trong khoảng một thập kỷ qua, tác giả Applebaum theo đuổi quỹ đạo khá quen thuộc, đi từ người theo chủ nghĩa tân bảo thủ Đại Tây Dương đến người theo chủ nghĩa chống dân túy Jeremiah. Cuốn sách trước của tác giả, “Twilight of Democracy” (Hoàng hôn của Dân chủ), đặt ra vấn đề vì sao rất nhiều đồng minh cũ bên cánh hữu cũ của bà – các nhà hoạt động và nhà báo thời Thatcher và Reagan ở London, Washington, Budapest và Warsaw – từ bỏ chủ nghĩa tự do cổ điển để theo đuổi một dạng chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Vì sao John O'Sullivan, từng phụ trách viết diễn văn cho Margaret Thatcher, lại tuyên truyền ủng hộ nhà độc tài Hungary Viktor Orban? Vì sao Rafael Bardají trước đây là nhà xã hội học trung hữu lại làm việc cho đảng Vox cực hữu của Tây Ban Nha? Thái độ của Applebaum trong cuốn sách ấy chính là kinh ngạc phẫn nộ: Vì sao bằng hữu của tác giả lại từ bỏ các giá trị (“ủng hộ châu Âu, ủng hộ pháp quyền, ủng hộ thị trường”) mà bà tưởng họ cùng chia sẻ? Có lẽ lâu nay họ chỉ là những kẻ tự ái bị tổn thương và những kẻ dối trá hám danh, đang khai thác “khuynh hướng độc đoán” trong tâm lý quần chúng.

Công bằng mà nói, cuốn sách mới của Applebaum mạo hiểm đưa ra câu trả lời phức tạp hơn và phũ phàng hơn: Toàn cầu hóa có tác dụng, chỉ có điều nó không như tác giả và bạn bè từng nghĩ. Các chế độ chuyên quyền dần trở nên liên kết với nhau hơn, trong khi thương mại của Mỹ và châu Âu phụ thuộc vào các quốc gia chuyên chế — chẳng hạn như vào ngành sản xuất của Trung Quốc và dầu mỏ của Nga — từ đó trở thành vũ khí được sử dụng để chống lại phương Tây. Tác giả Applebaum viết: “Người ta cho rằng trong một thế giới cởi mở hơn, kết nối hơn, tư tưởng dân chủ và tự do sẽ lan rộng đến các quốc gia chuyên chế”. Không ai tưởng tượng nổi tư tưởng chuyên quyền và phi tự do “sẽ lan sang thế giới dân chủ”.

Và không chỉ có tư tưởng. Trước và sau khi Liên Xô sụp đổ, tiền mặt cướp từ kho bạc các nước Đông Âu chảy vào tài khoản ngân hàng ở London và Caribe. Gần đây hơn, các công ty vỏ bọc ở Delaware mua bất động sản ở New York thay cho tài phiệt Nga và Trung Quốc. Khi đó kế toán viên, đại lý bất động sản và luật sư châu Âu và Mỹ được hưởng những khoản phí khổng lồ cho việc che giấu tài sản bất chính của những kẻ tham nhũng quốc tế. Nói tóm lại, hệ thống toàn cầu phục vụ cho nhu cầu của chế độ chuyên chế; còn những kẻ chuyên quyền không bị ai ép phải thay đổi.

Tác giả Applebaum nhận thức rõ khó khăn trong quá trình khắc phục tình trạng này: “Những người có quyền lực được hưởng lợi từ hệ thống hiện tại, muốn giữ tình trạng này như cũ, và có mối liên kết sâu rộng trên toàn bộ phạm vi chính trị”. Tác giả không phải người theo chủ nghĩa chống tư bản, nhưng tác giả đề nghị cải cách hệ thống tài chính — chẳng hạn như yêu cầu công ty phải đăng ký dưới tên chủ sở hữu thực sự, đó là điểm rất xác đáng và có giá trị.

Tuy nhiên, phần khuyến nghị về chính sách đối ngoại của tác giả lại có phần mang chủ nghĩa yêu nước mơ hồ. Applebaum giải thích, cuộc đối đầu hiện tại có thể không trực diện đơn giản như thời Chiến tranh Lạnh, nhưng thế giới vẫn có thể chia thành kẻ tốt và kẻ xấu. Những kẻ chuyên quyền hiện đại và những kẻ muốn theo đuổi phi tự do, “dù hệ tư tưởng của họ có khác nhau đến đâu, vẫn có kẻ thù chung”, Applebaum viết. “Kẻ thù đó chính là chúng ta. Nói chính xác hơn, kẻ thù đó là thế giới dân chủ, 'phương Tây', NATO, Liên minh châu Âu, những đối thủ dân chủ nội bộ của chính họ và những tư tưởng tự do truyền cảm hứng cho tất cả.”

Tôi nghĩ nhiều độc giả sẽ không phản đối cách nhìn này, đặc biệt là kể từ khi Nga xâm chiếm Ukraine năm 2022, từ đó củng cố quan hệ thương mại và an ninh trong phạm vi của Nga (và giữa Nga và Trung Quốc), đồng thời khôi phục lại sức mạnh và sự tự tin về mặt đạo đức của NATO.

Vấn đề là, đồng minh của NATO không phải lúc nào cũng hành xử đúng đắn có đạo đức. Ả rập Saudi, quốc gia theo chế độ quân chủ tuyệt đối, ít được quan tâm hơn nhiều trong cuốn sách này so với các nền dân chủ phi tự do nhưng đang hoạt động gần gũi hơn với Nga. Tác giả Applebaum xếp Ả rập Saudi vào nhóm chế độ chuyên chế “hầu như không tìm cách làm suy yếu thế giới dân chủ”, nhưng thật khó để hiểu nổi vì sao một quốc gia nổi tiếng nhắm vào và giết hại những người bất đồng chính kiến ở hơn chục quốc gia lại không đóng góp đáng kể vào bầu không khí áp bức trên toàn cầu.


Tác giả Applebaum đặt nhiều hy vọng vào chế độ trừng phạt mạnh mẽ hơn và có hiệu lực thực thi hơn để chống lại trật tự thế giới độc tài. Tác giả liên tục lên án Venezuela và Iran vì giúp đỡ nhau thực hành “kỹ nghệ đen tối trốn tránh lệnh trừng phạt”. Tác giả chưa từng nghi ngờ liệu các biện pháp trừng phạt có thực sự là cơ chế hiệu quả (chưa kể kém nhân đạo hơn nhiều) để phổ biến dân chủ tự do hay không.

Có một số bằng chứng cho thấy trừng phạt có thể gây ra tác động ngược. Theo nhà kinh tế Agedit Demarais, các biện pháp trừng phạt có thể hiệu quả khi cú sốc diễn ra nhanh chóng và có mục tiêu cụ thể, chẳng hạn như chấp nhận hạn chế chương trình hạt nhân quốc gia; nhưng thường kém thành công hơn khi tác động gây tổn gại kéo dài vô tận và tập trung vào mục tiêu lớn lao trừu tượng, như cách mạng chính trị. Trong trường hợp thứ hai, người dân của quốc gia bị trừng phạt thường đổ lỗi cho kẻ trừng phạt gây ra khó khăn cho đời sống của họ, và chính phủ tăng cường thương mại với các quốc gia bị trừng phạt khác — chính xác là hiện tượng Applebaum đang miệt mài ghi nhận. Cuộc chơi đẫm máu o ép kinh tế toàn cầu tạo ra những kẻ đồng bệnh tương lân kỳ lạ có thể cùng nhau hợp tác.

Trong nỗ lực kết nối kẻ thù của thế giới tự do, tác giả Applebaum đôi khi cũng đưa ra kết luận viển vông. Tác giả viết, các chế độ chuyên chế “theo dõi thất bại và chiến thắng của nhau, tính toán thời gian hành động của mình để tạo ra hỗn loạn tối đa”. Vì vậy, theo Applebaum, không phải ngẫu nhiên trong lúc viện trợ cho Ukraine đang bị Đảng Cộng hòa MAGA ở Mỹ và Viktor Orban ở Liên minh châu Âu cản trở, thì “hàng trăm nghìn công dân Venezuela, bị bần cùng hóa do chính sách của Maduro, đang vật lộn vượt qua Trung Mỹ hướng về biên giới Mỹ. Số lượng người dân nhiều chưa từng thấy đang góp phần thúc đẩy làn sóng phản ứng dữ dội theo kiểu dân túy, bài ngoại ở Mỹ và tăng cường sự ủng hộ cho phe MAGA của Đảng Cộng hòa, vốn đã công khai ủng hộ Putin trong cuộc chiến tiêu diệt Ukraine.”

Đoạn văn này muốn ám chỉ điều gì? Rằng tổng thống Venezuela Nicolás Maduro cố tình bỏ đói công dân của mình và buộc họ rời khỏi đất nước để giúp đỡ Đảng Cộng hòa ở Mỹ hay sao? Applebaum gọi đó là ví dụ về việc “các chế độ chuyên chế khác nhau mở rộng ảnh hưởng của họ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và thông tin khác nhau như thế nào”, nhưng điểm này bề ngoài có vẻ vô lý, đặc biệt là vì các đảng viên Đảng Cộng hòa, bao gồm cả người yêu thích nhà lãnh đạo mạnh mẽ như Donald Trump, là những người chỉ trích gay gắt nhất chính phủ xã hội chủ nghĩa của Maduro.

Tôi không chấp nhận được nhiều khía cạnh của chế độ mà tác giả Applebaum đưa ra để chế giễu. Quan điểm của tôi về chủ nghĩa quốc tế tự do luôn tương đồng với thái độ của Gandhi (có lẽ trích dẫn không chính xác) đối với “Nền văn minh phương Tây” — đó là điều nên làm. Nhưng những câu chuyện tầm thường của Applebaum khiến độc giả khó nhìn nhận thế giới sao cho rõ ràng, khó hiểu vì sao một số quốc gia đứng về phía kẻ thù của Mỹ còn số khác thì không.

Một trong những thất bại lớn của chủ nghĩa tân tự do là cho rằng tất cả những điều tốt đẹp sẽ đến cùng nhau: Phương Tây sẽ có được thị trường mới và phương Đông sẽ có được nền dân chủ — chúng ta sẽ giàu có, còn họ sẽ được tự do — không có gì phải đánh đổi. Quan điểm mới của tác giả Applebaum không mơ mộng như vậy. Lần này sẽ phải có sự hy sinh. Chiến tranh thương mại với Trung Quốc sẽ gây thiệt hại cho người tiêu dùng; Phố Wall sẽ la hét vì thuế quan. Nhưng nội dung cuốn sách “Autocracy, Inc.” quả thực mang lại một chút an ủi cho những ai đang than khóc về sự suy tàn của nước Mỹ: Những gì chúng ta đã mất trong quyền bá chủ kinh tế, chúng ta có thể bù đắp bằng tự tin về mặt đạo đức.

Nước Mỹ lại dẫn đầu thế giới tự do; chỉ là thế giới này nhỏ hơn trước đây.

By Sam Adler-Bell

Sam Adler-Bell is a co-host of the podcast “Know Your Enemy.”

AUTOCRACY, INC.: The Dictators Who Want to Run the World | By Anne Applebaum | Doubleday | 209 pp. | $27

Why Is Autocracy Thriving? Anne Applebaum Says: It’s the Economy, Stupid. 
https://www.nytimes.com/2024/07/20/books/review/autocracy-inc-anne-applebaum.html

Ngay cả Michael Lewis cũng chẳng thể biến Sam Bankman-Fried thành người hùng được

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn sách mới của Lewis “Going Infinite” (“Đồng tiền vô tận”) về vị tỷ phú tiền mã hõa ô danh, không tuân theo công thức luôn thu phục lòng người của tác giả là những câu chuyện hào hứng và thiên tài không ai biết đến.


Đọc “Going Infinite”, cuốn sách mới có vẻ khác lạ của Michael Lewis về doanh nhân tiền mã hóa ô danh Sam Bankman-Fried, bạn sẽ mau chóng nhận ra Lewis cảm thấy bối rối khác thường bởi tư liệu. Một trong những niềm vui đích xác mà một cuốn sách của Michael Lewis đem đến cho chúng ta là kỹ năng kể chuyện rất ấn tượng, sự nhấn nhả hài hước đúng lúc cùng sự tự tin lôi cuốn của ông. Ông chắc chắn sẽ mang đến cho bạn một người hùng không ai biết đến để ca ngợi: một công chức tận tụy, một vị tổng quản lý đội bóng chày nổi loạn, một nhà đầu tư đi ngược xu thế không để bị lừa bịp bởi sự thổi phồng. Thậm chí cả cuốn sách đầu tay của Lewis là “Liar's Poker” (“Bài bạc bịp”) kể về các kiểu chiêu trò tệ hại ở Phố Wall, cũng có bố cục xoay quanh chàng trai trẻ Michael Lewis, người giã từ “trò cờ bạc phi lý” của làng tài chính để đến với ánh hào quang của làng báo chí và địa vị tác giả có sách bán chạy nhất.

Bankman-Fried được trông đợi là một người hùng khác trong mạch viết này – hoặc chí ít cũng là điều Lewis ám chỉ tại những trang đầu của cuốn sách “Going Infinite”, khi ông kể lại việc một người bạn sắp chốt được thỏa thuận với Bankman-Fried nhờ Lewis điều nghiên anh ta. Sau cuộc gặp đầu tiên với Bankman-Fried cuối năm 2021, Lewis nói rằng ông “bị thuyết phục hoàn toàn”. Ông gọi điện cho bạn: “Làm tới đi! Cứ trao đổi cổ phần với Sam Bankman-Fried đi! Hãy làm bất kỳ điều gì cậu ấy muốn! Đâu có gì sai sót được?"

Những dấu chấm than tràn ngập trong câu trần thuật trên là dấu hiệu cho thấy Lewis ít nhất cũng có phần nhận thức được sự lạc quan đó có vẻ ngớ ngẩn đến mức nào khi hồi tưởng lại – đặc biệt là lúc này khi việc lựa chọn bồi thẩm đoàn cho phiên tòa xét xử Bankman-Fried về các cáo buộc gian lận dự kiến bắt đầu thứ Ba vừa rồi, cũng là ngày xuất bản cuốn sách. Song “Going Infinite” vẫn ẩn chứa dấu vết bóng ma của khuôn mẫu anh hùng không ai biết đến trước đây, một khuôn mẫu lẽ phải bị đập bể từ tháng 11 năm ngoái, khi đế chế tiền mã hóa của Bankman-Fried bất ngờ sụp đổ tan tành. Lewis, người đi lại như con thoi từ Bahamas nơi Bankman-Fried thường trực, ở vào địa vị gần gũi với anh ta trong những tháng trước khi xảy ra thảm họa – từ địa vị đó dường như ông chẳng thể nhìn thấy được gì. “Đến tận những ngày cuối tháng 10 năm 2022,” ông viết, “có lẽ ta đã sục sạo khắp những túp lều trong rừng cho đến khi mệt đứt hơi mà không hề có chút linh cảm nào rằng có điều gì đó không ổn.”

Wednesday, October 2, 2024

Những "Chuột Thư Viện" góp phần chiến thắng Thế chiến II

nguồn: New York Times

Trong tác phẩm đầy sinh động "Sách và Dao Găm", nữ sử gia Elyse Graham cứu vớt một nhóm học giả-gián điệp khỏi sự lãng quên.


William J. Donovan, điều phối viên thông tin người Mỹ, được thấy ở đây vào năm 1942, đã tận dụng các khoa nhân văn và khoa học xã hội của các đại học Mỹ để tuyển nhân viên cho Cơ quan Tình báo Chiến lược (Office of Strategic Services - O.S.S.) vừa được thành lập của ông.

Thế giới gián điệp thường được chia thành hai loại: tình báo con người (humint) và tình báo tín hiệu (sigint). Tình báo con người gồm những bí mật thu thập từ các cá nhân và tổ chức, mà họ có thể biết hoặc không. Tình báo tín hiệu là thu thập thông tin kỹ thuật qua việc chặn các bức điện: thư, điện tín, cuộc gọi thoại, và gần đây nhất là email, tin nhắn văn bản, cùng cơn bão tuyết thông tin điện tử.

Nhưng hai trụ cột này lại được xây dựng và hỗ trợ bởi công việc ít hào nhoáng hơn của phân tích tình báo: lọc qua lượng lớn dữ liệu để có cái nhìn rõ ràng hơn về kẻ thù (hoặc đồng minh), kế hoạch và bố trí của họ. Một số tài liệu này được thu thập bí mật, nhưng nhiều tài liệu khác lại đến từ các nguồn mở, được nghiên cứu tỉ mỉ, chắt lọc thành những thông tin ngắn gọn, sau đó chuyển cho các điệp viên, binh sĩ và chính trị gia.

Đây là phần ít hấp dẫn nhất của gián điệp, không phải là trò chơi áo-choàng-và-dao-găm, mà là công việc với tủ hồ sơ và thẻ mục lục – mạng lưới các điệp viên ẩn danh đào bới trong bóng tối. Công việc này tốn nhiều thời gian, phức tạp, thường không được biết đến, nhưng lại quan trọng đối với sự hoạt động hiệu quả của hệ thống tình báo hiện đại.

Elyse Graham, nhà sử học và giáo sư tại Đại học Stony Brook, cố gắng cứu vớt một số "những con ong thợ" của tình báo ra khỏi sự lãng quên bằng cách khám phá đóng góp của họ vào chiến thắng trong Thế chiến II. Bà nhiệt tình lập luận rằng nhiều trong số những người thu thập dữ kiện và phân tích này không phải là gián điệp chuyên nghiệp mà là những học giả Mỹ, giáo sư nhân văn, nhà sử học, thủ thư, nhà nhân chủng học, nghệ sĩ, người yêu sách và chuyên gia nghệ thuật. Đây là lời kêu gọi sự hiểu biết sâu sắc hơn về vai trò của cuốn sách, câu chuyện tưởng tượng, nghệ sĩ, nhà văn, các ngành khoa học nhân văn và những "con chuột thư viện" đã nghiên cứu chúng.

Đây không chỉ là cuộc chiến của những người lính và nhà khoa học. "Đây cũng là cuộc chiến của nhà sử học, của người sưu tập sách, của nghệ sĩ," bà viết. "Đây là cuộc chiến của các giáo sư."

Tháng 6 năm 1942, Cơ quan Tình báo Chiến lược được thành lập bởi William "Wild Bill" Donovan — luật sư, cựu binh Thế chiến I và là một người đam mê sách vở — để điều phối tình báo phía sau chiến tuyến địch. Ngay lập tức ông bắt đầu tìm kiếm tuyển dụng tại các khoa nhân văn và khoa học xã hội của các đại học Mỹ để làm việc trong Chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích, những người có đào tạo học thuật (và kiên nhẫn) để thu thập sự thật càng nhiều, càng rộng càng tốt, hiểu, tinh chỉnh và sau đó sắp xếp chúng thành một hình thức sử dụng được.

O.S.S. là cơ quan gián điệp đầu tiên có đủ tài nguyên và năng lượng để phân tích tình báo ở quy mô công nghiệp: Công việc của Nghiên cứu và Phân tích — khai thác những mẩu thông tin quý giá từ khối lượng thông tin không đáng kể — sẽ trở thành nền tảng trí tuệ của C.I.A. trong tương lai.

Cựu Ngoại trưởng Henry Stimson từng ngạo mạn tuyên bố rằng "các quý ông không đọc thư của nhau." Tuy nhiên, tác giả viết, "các quý ông có thể không đọc thư của người khác, nhưng các học giả thì có. Họ rất giỏi về việc đó."

Graham kể câu chuyện qua ba nhân vật chính: Adele Kibre, nhà lưu trữ có bằng Tiến sĩ tiếng Latin từ Đại học Chicago; Joseph Curtiss, giáo sư Anh ngữ tại Yale; và Sherman Kent, giáo sư lịch sử Yale — một nhân vật thô bạo, tục tĩu, người ưa đeo dây đai đỏ và có thể "phi dao giỏi hơn người Sicily."

Trong khi Curtiss thu thập tài liệu đã được xuất bản tại Istanbul trung lập dưới vỏ bọc là thu thập sách cho thư viện Yale, Kibre được cử đến Thụy Điển trung lập (một điểm nóng gián điệp khác) để thu thập và chụp lại tài liệu in, bao gồm nhiều thông tin về Đệ Tam Đế Chế: tài liệu tuyên truyền, các tạp chí khoa học và kỹ thuật, tập sách bất hợp pháp về cách đào ngũ khỏi quân đội Đức, sách in tư nhân, bản đồ, thư mục, danh bạ điện thoại, tác phẩm về hàng không, ngân hàng, dầu mỏ tổng hợp, đóng tàu, thống kê.

Là trưởng phòng Nghiên cứu và Phân tích phụ trách khu vực Âu-Phi ở Washington, Kent chịu trách nhiệm biến khối lượng thông tin thành các câu trả lời cho những câu hỏi cụ thể: số lượng tối ưu của viên đạn trong đạn pháo máy bay, tỷ lệ cao su tổng hợp trong lốp xe hơi của Đức, chiều dài chính xác của các đường ray phụ trên các tuyến đường sắt Morocco. Công việc này đòi hỏi sức chịu đựng gần như siêu phàm đối với sự nhàm chán.

Graham kể tất cả những điều này theo phong cách vui nhộn, đôi khi hơi lộn xộn, trượt vào các câu chuyện về nghề gián điệp nơi các nhân vật chính đơn giản là bịa đặt câu chuyện để lừa địch như trong chiến dịch nổi tiếng "Mincemeat", nơi một xác chết được gán danh tính giả và tài liệu giả để đánh lừa quân Đức về cuộc đổ bộ vào Sicily.

Đôi khi, bà thêm vào những đoạn giả thuyết, các cuộc gặp và những đoạn hội thoại. Nhưng không cần phải hư cấu khi sự thật về gián điệp thời chiến đã khó tin như vậy.

"Chiến tranh có thể đã diễn ra trên các chiến trường, nhưng nó đã được thắng trong các thư viện," bà viết. Đây chính là sự tài tình thực sự của tình báo Đồng Minh: việc sử dụng một loạt các tay nghiệp dư tài năng — những người có tư duy "xoáy nút chai" theo cách gọi của Churchill — nhiều trong số họ rời thư viện để chiến đấu trong cuộc chiến với giấy tờ, sách và học thuật, và khi mọi thứ kết thúc, họ lặng lẽ quay trở lại các khu học viện.

BOOK AND DAGGER: How Scholars and Librarians Became the Unlikely Spies of World War II | By Elyse Graham | Ecco | 400 pp. | $30

The ‘Library Rats’ Who Helped Win World War II

https://www.nytimes.com/2024/09/24/books/review/book-and-dagger-elyse-graham.html

Câu chuyện lịch sử về ẩm thực Trung Hoa, và bữa tiệc mỹ mãn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “Invitation to a Banquet” (“Thiệp mời dự tiệc”) của Fuchsia Dunlop là công trình nghiên cứu văn hóa về nền ẩm thực cực kỳ rộng lớn và thường bị hiểu sai.

“Một cuốn sách dạy nấu ăn thực sự hay,” Jan Morris viết, “thì về mặt tri thức nó còn mạo hiểm hơn cả cuốn cẩm nang tình dục Kama Sutra.” Cuốn sách mới vào loại bậc thầy của Fuchsia Dunlop “Invitation to a Banquet: The Story of Chinese Food” (“Thiệp mời dự tiệc: Câu chuyện về ẩm thực Trung Hoa”) thực chất không phải là một cuốn sách dạy nấu ăn. Nhưng nó có sự liên quan trực tiếp đến dục tính gợi cho ta nhớ đến nhận xét trên của Morris.

Khó mà viết về ẩm thực dài hơn một hoặc hai trang sách mà không thêm nếm những so sánh và ám chỉ đến một dạng hành vi tính dục khác. Ẩm thực và tình dục: phương pháp và sự đa dạng của chúng vay mượn từ cùng một nguồn ngôn ngữ. Những gì ta ăn cũng bộc lộ bản thân ta y như những gì ta làm trên giường, và khi ta già đi thì ăn uống là sự bù đắp cho tình dục.

Những mô tả của Dunlop nghiên cứu mối liên kết này. Những chiếc lá xanh thẫm trên cây cải làn “mượt mà và rũ xuống như mái tóc nàng tiên cá”. Các đầu bếp ở Thiểm Tây rất lành nghề trong việc “thọc ngón cái, đùn ra, bấu véo, nhỏ giọt, giằng giật, căng ra, xoa bóp” sợi mì của họ. Những thực đơn nhằm vào khách hàng phương Tây, với những món ăn rõ rành rành, giống như “các cô gái hộp đêm đang xếp hàng khoe chân”. Mô tả kết cấu thành phần trong những cuốn sách dạy nấu ăn của Trung Quốc gợi cho Dunlop nhớ đến những cảnh trong “Fanny Hill”, cuốn tiểu thuyết khiêu dâm kinh điển. Một món hầm bữa sáng đơn giản “mơi khách bằng ớt và dưa chua”. Nếu tôi được một xu cho mỗi lần Dunlop dùng từ “mê mẩn” hoặc “si mê”, tôi hoàn toàn có thể trả tiền cho 40 phút đỗ xe ở bãi đỗ của một thị trấn nhỏ.

Sự hùng hồn này bổ sung thêm nhân tố con người cho cái vốn là một tác phẩm lịch sử ẩm thực nghiêm túc và mạo hiểm. Là một cuộc điều nghiên về văn hóa, tri thức và chính trị, “Invitation to a Banquet” được xếp ngang hàng với cuốn “The Food of France” (“Ẩm thực Pháp” – ra mắt năm 1958) của Waverley Root và cuốn “High on the Hog” (“Sơn hào hải vị” – ra mắt năm 2011) của Jessica B. Harris. Nó là cuốn từ điển chuyên đề về các giác quan. Cuốn sách nâng Dunlop, nhà văn và đầu bếp người Anh tốt nghiệp Đại học Cambridge, lên tầm cao mới với tư cách là nhà bình luận ẩm thực. Văn phong của chị cũng phong phú và sinh động như văn phong của M.F.K. Fisher và Betty Fussell. May thay, chị thiếu sự tự tin của Fisher, và có sự sôi nổi của Fussell.

Nếu bạn quan tâm đến ẩm thực, hẳn bạn từng nghe danh Dunlop. Chị là sinh viên kỳ cựu, và là người làm sáng tỏ ý nghĩa của nền ẩm thực Trung Quốc cho độc giả phương Tây. Chị là người phương Tây đầu tiên được đào tạo tại Học viện Ẩm thực Tứ Xuyên. Chị giành được bốn giải thưởng James Beard. (Như tất cả mọi cư dân New York sành sỏi, Beard biết rằng lang thang ở khu phố Tàu để ăn trưa là phần hay ho nhất trong lúc làm nhiệm vụ giám khảo.) Chị viết nhiều cuốn sách, trong đó có “The Food of Sichuan” (“Ẩm thực Tứ Xuyên”), “Every Grain of Rice” (“Từng hạt gạo”) và cuốn hồi ký “Shark’s Fin and Sichuan Pepper.” (“Vi cá mập và ớt Tứ Xuyên”). Cuốn sách mới này là tác phẩm để đời của chị.

Dunlop tiếp cận ẩm thực Trung Hoa với sự hiếu kỳ, lòng tôn trọng và nhiệt huyết hòa quyện với nhau. Lorrie Moore viết: “Bản lĩnh là một phẩm chất đẹp đẽ ở một con người”, và Dunlop có rất nhiều phẩm chất đó. Quan trọng là chị không bị hoang mang lo sợ bởi chủ đề của mình. Chị gọi ra những thủ đoạn mà chị lên án, chẳng hạn như việc Trung Quốc rất thèm muốn các hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã. Thế nhưng, chị viết:

Nhiều năm khéo léo cân bằng giữa “phương Tây” và Trung Quốc biến tôi thành một nhà ngoại giao dày dạn, người theo chủ nghĩa tương đối về văn hóa, người luôn giữ thái độ trung lập và hết lòng kìm nén những lời phán xét. Đó là cái mà sự hòa nhập vào nền văn hóa khác gây ra cho ta. Đó có lẽ là lý do vì sao những người như tôi làm thế: phá vỡ những quan điểm không gì lay chuyển nổi của chúng ta và nhìn mọi thứ qua con mắt hình lăng kính của một con côn trùng, từ nhiều góc độ.

Dunlop chia cuốn sách của mình thành bốn phần: Lò sưởi, Trang trại, Nhà bếp và Bàn ăn. Các phần này lại được chia nhỏ thành 28 chương, hầu hết các chương đều phân tích một công thức hoặc một phương pháp: Gà Trùng Khánh xào ớt khô, Mì xắt bằng dao, Đậu phụ Tứ Xuyên, Cùi bưởi nấu với trứng tôm, Thịt kho tàu, Cá vược thái lát và Canh Thủy khiên, Tiểu long bao hấp, v.v… Đa phần các chương đều bắt đầu bằng một bữa ăn, hay một chuyến thăm trang trại hoặc nhà máy sản xuất rượu vang, hoặc thăm một đầu bếp đáng kính. Rồi từ đó chị mở rộng ra lịch sử của những gì nằm trên đĩa ăn của chị.

Muốn hiểu khủng hoảng khí hậu thực chất là gì, hãy hỏi loài vật

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“The End of Eden” (“Thiên đường sắp mất”) là khúc bi ca đầy xúc cảm và rùng rợn của Adam Welz cho sự đa dạng sinh học như chúng ta từng biết.

Bạn sẽ không thấy cái kết có hậu từ cuốn sách này.

Loài này nối tiếp loài khác. Quần xã này nối tiếp quần xã khác. Lục địa này nối tiếp lục địa khác. Cái thế giới mà nhà báo Nam Phi chuyên viết về môi trường là Adam Welz mô tả đang ở giai đoạn cuối của sự sụp đổ. Giọng điệu của cuốn sách – ít nhất là cho đến chương cuối mang tính tự bạch – rất đắn đo cân nhắc và chính xác, khí độ điềm tĩnh, không thể hiện sự phẫn nộ mà thay vào đó là sự cẩn trọng chú ý đến tính chính xác trong mô tả và phân tích. Welz ngắm nhìn những lò xo và bánh xe của cơ-thể-trái-đất quay tách khỏi nhau thành rời rạc vô dụng. Và hiệu ứng tích tụ lại rất tàn khốc.

Những cá thể con người hầu hết không có mặt trong câu chuyện này. Chẳng có những nhà khoa học anh hùng hay những chủ giếng dầu tệ hại. Thế vào chỗ của họ, những sinh vật khác chiếm vị trí trung tâm, và động lực chi phối là thế này: Cái thế giới sống này đã tiến hóa theo nhiều cách phức tạp để thích nghi và hưởng lợi từ các điều kiện hiện hành của hành tinh. Những điều kiện đó vẫn luôn thay đổi linh hoạt, song việc đốt nhiên liệu hóa thạch của chúng ta trong hai thế kỷ qua đột nhiên đẩy tất cả hệ thống rơi vào hỗn loạn. Suốt chiều dài lịch sử nhiều tỷ năm, Trái đất chưa bao giờ đổi khác nhiều hơn là vào cuối kỷ băng hà sau cùng –trùng vào lúc chúng ta bắt đầu đời sống hoang dã của mình khoảng 11.700 năm trước – và chúng ta hiện đang sống trong tình trạng hỗn loạn mà chúng ta tạo ra. Chúng ta đã uổng phí sự hoàn hảo mà quá trình tiến hóa truyền lại cho chúng ta.

Tầm phủ sóng xa rộng của Madona

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn tiểu sử do Mary Gabriel viết thấu đáo thế nào thì chủ thể của nó cũng quy củ y như vậy. Nhưng trong việc không ngừng bảo vệ siêu sao đó, tinh thần tự giải phóng khỏi mọi chuẩn mực của Madona ở đâu?

“Tôi muốn ở một mình” là câu nói nổi tiếng của nhân vật vũ nữ do Greta Garbo thủ vai trong bộ phim “Grand Hotel”, câu trích dẫn thường xuyên và nói đúng ra thì chỉ phần nào gắn liền với nữ diễn viên này sau khi cô rút lui khỏi cuộc sống người của công chúng. Garbo đứng đầu danh sách các minh tinh Thời Hoàng kim của Hollywood trong bài hát “Vogue”, một trong những bài hát thành công nhất của Madonna, nhưng đã lâu nay ngôi sao nhạc pop này dường như là hiện thân ngược lại hoàn toàn của câu châm ngôn trên. Nàng muốn được mọi người vây quanh, cứ như thể với âm thanh vòm nổi Dolby.

Giám đốc phòng thu Seymour Stein nhận xét: “Thậm chí trước khi Madonna có người quản lý, cô ấy đã có cả một đoàn giúp việc và ca sĩ hát phụ tháp tùng cô đi khắp nơi”.

Mặc dù là ca sĩ solo đúng nghĩa, nhưng Madonna được các vũ công trợ giúp từ khi bắt đầu sự nghiệp hồi đầu thập kỷ 1980. Nàng có sáu người con: hai con đẻ, bốn con nuôi gốc Malawi. Nhiều người khác tự coi mình là đứa con tinh thần của nàng: những người đồng tính nam mà nàng là bà mẹ bảo trợ của họ; những nữ nghệ sĩ trẻ hơn mà nàng đã truyền cảm hứng cho họ.

Và nàng đã đi vòng quanh thế giới với đoàn tùy tùng linh hoạt gồm bạn bè, nhà văn, nhà sản xuất, đạo diễn, nhà quản lý, nhiếp ảnh gia, chuyên gia quảng cáo, phóng viên và người hâm mộ, tất cả đều tề tựu đông đủ một cách hữu ích trong cuốn tiểu sử mới đồ sộ và đầy khiêu khích do Mary Gabriel viết về nàng: bức tường thành kiên cố được xây từng viên gạch một ngăn cản bất kỳ kẻ phỉ báng nào đang loi ngoi trong con hào bao quanh lâu đài của nàng.

“Madonna: A Rebel Life” (“Madona: Một đời nổi loạn”) là một trong những cuốn sách bạn phải tính độ dài bằng cân chứ không phải trang: nặng gần 1,5 cân, trọng lượng này sẽ nặng hơn nếu nhà xuất bản không quyết định đăng chú thích và thư mục trực tuyến thay vì in kèm. Nó sẽ không đặt vừa chiếc kệ nhỏ trên máy tập StairMaster ở phòng tập gym – máy tập thể dục cổ điển của Madonna – tuy nhiên rốt cuộc bạn có thể nâng nó lên để tập tạ tay.

Thay vì tập tạ tay, nếu bạn ngẫu nhiên bước vào một lớp thể dục nhịp điệu, không những có khả năng cao là giáo viên hướng dẫn sẽ phát một bài hát trong danh mục của Madonna mà có thể cô giáo đó còn đeo một chiếc mic có tai nghe – và đó cũng là đúng kiểu Madonna. Như Gabriel lưu ý, dù công nghệ này được các phi công và Kate Bush sử dụng trước đó, nhưng chính nhân vật của chị đã biến nó thành công nghệ đại chúng trong chuyến lưu diễn “Blond Ambition” năm 1989.

Tuy nhiên, người phụ nữ ra đời năm 1958 với tên khai sinh là Madonna Louise Ciccone, cùng năm với Prince và Michael Jackson, lại chẳng phát ngôn gì dành cho cuốn sách này. Tiếng nói của nàng được dẫn truyền từ nhiều cuộc phỏng vấn trước đó, từ những buổi biểu diễn được thu âm và bài đăng không thường xuyên trên Instagram, nơi mà ngay từ những ngày đầu đại dịch nàng cực lực phản đối video “Imagine” của Gal Gadot bằng video quay cảnh nàng khỏa thân trong bồn tắm giữa những cánh hoa hồng bồng bềnh, tuyên bố rằng Covid-19 là “sự cân bằng tuyệt vời.”

Lần Gabriel tiếp cận gần nhất với Madonna bằng xương bằng thịt là nửa tá cuộc trò chuyện với anh trai nàng, Christopher Ciccone, tác giả cuốn hồi ký “Life With My Sister Madonna” (“Sống với em gái Madona của tôi”) bán rất chạy năm 2008; cuốn hồi ký này chí ít đã gây ra sự bất hòa nhất thời giữa hai anh em, những người cộng tác chuyên nghiệp lâu năm. (Cảm giác bị phản bội của Madonna khó có thể đi đôi với sự bảo vệ đầy nhiệt huyết của nàng đối với quyền tự do biểu đạt cá nhân.)

Gabriel cũng nói chuyện với hơn 30 nguồn tin khác, thật ngạc nhiên là rất ít nguồn liên quan đến phạm vi tác phẩm, và đào bới ra vài mẩu thông tin thú vị được lưu trữ, chẳng hạn như Norman Mailer, tại bản thảo đầu tiên trong số hơn 200 bản mà ông viết cho mục tiểu sử của tạp chí Esquire năm 1994, mô tả Madonna là người Mỹ gốc Ý “bé tẹo” (ông dùng một từ có tính miệt thị dân tộc thay vì từ này) “với trái tim được hình thành từ sự táo bạo của hàng trăm tổ tiên nông dân”.

Tài năng, ma lực, tiền bạc, lừa đảo: Chào mừng đến với Thế giới Mỹ thuật

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Orlando Whitfield (bên trái) và Inigo Philbrick. Philbrick thú nhận trước tòa rằng anh ta đã v...