Search This Blog

Wednesday, October 2, 2024

Làm cách nào một khẩu súng được chế tạo để chiến đấu lại tìm đường đến được với hàng triệu gia đình?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “American Gun” (“Khẩu súng Mỹ”) của Cameron McWhirter và Zusha Elinson kể lại chi tiết lịch sử khốc liệt của khẩu súng trường AR-15 mà không hề tô vẽ.

Theo lời kể của Cameron McWhirter và Zusha Elinson trong “American Gun”, câu chuyện về khẩu súng trường AR-15 khét tiếng này là một phiên bản của Frankenstein, với nhà phát minh lỗi lạc tên là Eugene Stoner trong vai Victor Frankenstein, người tạo ra con quái vật đó. Là “người thợ nghiệp dư thích mày mò” không có bằng đại học, Stoner có trí tưởng tượng không ngơi nghỉ và năng khiếu trực quan về kỹ thuật, thôi thúc ông phác thảo thiết kế ở khắp mọi nơi, kể cả trên khăn trải bàn ở nhà hàng. Vào thập kỷ 1920, sống ở Thung lũng Coachella của California khi còn thơ ấu, cậu bé Stoner đi săn cùng cha và bị ám ảnh bởi “đủ loại vật thể có thể bắn ra được”.

Dù cuối cùng Stoner đã thai nghén một loại vũ khí làm thay đổi thế giới, song ông không thể tìm tòi để hiểu được những hậu quả tiềm ẩn của nó. Ông muốn binh lính Mỹ có loại súng hiệu quả nhất có thể có được, loại súng có khả năng giúp họ nhanh chóng tiêu diệt một nhóm Cộng sản. Câu chuyện về thành tựu vĩ đại của ông và hậu quả hủy diệt của nó tạo thành tâm điểm cho cuốn sách của McWhirter và Elinson, một tác phẩm bậc thầy về tường thuật lịch sử và phóng sự nguyên bản.

Cho đến thời Chiến tranh Triều Tiên, lính Mỹ vẫn sử dụng khẩu M1 nặng nề khủng khiếp, loại vũ khí chính xác cần có băng đạn tám viên và bắn ra những viên đạn to. Năm 1950, sau một trận đánh hồi đầu cuộc chiến, khi lính Mỹ bị áp đảo bởi lực lượng đông hơn của Bắc Triều Tiên, hiển nhiên khẩu súng trường này không còn hữu dụng nữa.

Stoner, người từng là lính thủy đánh bộ trong Thế chiến II, đầu quân cho một tập đoàn sản xuất van máy bay, nơi một kỹ sư thiết kế chăm nom dạy dỗ anh, cho anh học việc. Tình trạng không được đào tạo chính quy biến anh thành người sáng tạo hơn và bớt thủ cựu hơn những đồng nghiệp được đào tạo. Khi có thời gian rảnh rỗi, anh lao vào sứ mệnh trong gara của mình là cải tiến khẩu M1 thô vụng. Năm 1954, cuộc gặp gỡ tình cờ với một doanh nhân lắm mưu nhiều kế dẫn đến việc thành lập Armalite, hãng sản xuất súng đạn này dưới sự chỉ đạo của Stoner sẽ chế tạo khẩu AR-15 và cố gắng thuyết phục quân đội sử dụng nó.

Loại vũ khí bắn rất nhanh này được cấu thành từ nhôm, sợi thủy tinh và nhựa, nặng khoảng 2,5 kg khi chưa nạp đạn. Nó có một hệ thống nạp đạn kiểu mới hoạt động bằng khí nén của chính khẩu súng và một báng súng độc đáo giữ cho khẩu súng nhằm đúng mục tiêu. Nó có thể chuyển đổi giữa cài đặt bán tự động và hoàn toàn tự động. Đạn của nó nhỏ và bắn ra với tốc độ cao. Khi một viên bắn trúng cơ thể con người, theo lời các tác giả, “nó sẽ chậm tốc độ lại và giải phóng năng lượng”. Không giống như viên đạn cỡ nòng lớn của khẩu M1 có xu hướng xuyên thẳng qua người, viên đạn của khẩu AR-15 trở nên dễ thay đổi về lý tính khi găm vào và “xé nát cơ thể như một cơn lốc xoáy, xoắn ốc và xoay nghiêng khi nó phá hủy các cơ quan, mạch máu và xương cốt”.

Bất chấp sự tàn khốc hiển nhiên của loại vũ khí này, Armalite không kiếm được hợp đồng quân sự lớn nào. Năm 1959, hãng sản xuất súng Colt mua lại quyền sản xuất và cấp giấy phép con cho khẩu AR-15 của Stoner và hệ thống nạp đạn bằng khí nén của anh. Colt may mắn hơn với phiên bản khẩu súng trường của mình, phiên bản mà các lực lượng vũ trang gọi là M16. Nó được trang bị băng đạn 20 viên, và hồi năm 1966 quân đội đặt mua hơn 400.000 khẩu súng loại này cho binh lính.

Với cách diễn đạt điềm tĩnh, chính xác cho phép nghiên cứu toàn diện của các tác giả tỏa sáng, cuốn “American Gun” làm sáng rõ rằng chức năng quan trọng nhất của khẩu AR-15 là tiêu diệt kẻ thù với khả năng nhanh nhất. Khẩu súng này không dùng cho mục đích dân sự. Điều đó không ngăn cản hãng Colt tiếp thị tới những người săn bắn một phiên bản bán-tự-động – khẩu "Sporter" – có ổ đạn năm viên. Khẩu súng này không được ưa chuộng và hãng chỉ sản xuất vài nghìn chiếc mỗi năm. Nhưng năm 1977, khi bằng sáng chế của Stoner hết hạn, quan điểm đó đã thay đổi.

Một người xa lạ giàu có muốn cho bạn toàn bộ số tiền của anh ta. Cạm bẫy đấy.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Trong cuốn Anansi's Gold (“Vàng của Anansi”), Yepoka Yeebo đào sâu đến tận gốc rễ một vụ lừa đảo lừng danh – và người đàn ông đã trốn thoát được sự trừng phạt hàng thập kỷ.

Hãy bảo tôi đừng kể nữa nếu bạn đã nghe chuyện này: Một người xa lạ cần thu hồi khoản tiền bị mắc kẹt trong một ngân hàng. Nhưng để tiếp cận được số tiền khổng lồ này, anh ta cần tiền tàu xe đi lại. Và để đáp ứng khoản chi phí này cũng như các phí tổn hành chính cần thiết khác nhằm mở khóa gia tài này, bạn có vui lòng giúp anh ta một khoản đầu tư nhỏ được không? Bạn sẽ được đền đáp xứng đáng cho sự hào phóng của mình.

Trò này được gọi là lừa đảo tạm ứng chi phí, hoặc “419”.

Ngày nay, các vụ lừa đảo kiểu này thường nhằm vào người già và người không-hiểu-biết-gì-về-mạng. Nhưng hồi xưa có một người đàn ông tên là John Ackah Blay-Miezah đã lừa được một cơ số đáng kể những người lõi đời vào một vụ điên rồ như vậy, họ hết lòng trông đợi khi vụ đầu tư kết thúc, khoản tiền đầu tư ban đầu sẽ được nhân 10 lần.

Nạn nhân gồm cả các nguyên thủ quốc gia, chính trị gia và doanh nhân. “Những người tin rằng Blay-Miezah là kẻ lừa đảo”, vị đại sứ Mỹ tại Ghana viết cho Henry Kissinger, “đang lo rằng hắn ta rất có thể có tiền và thế thì họ có vẻ sẽ là những kẻ cực kỳ ngu ngốc”.

Câu chuyện “Anansi’s Gold” hấp dẫn của Yepoka Yeebo phác thảo những nét chính về cuộc đời của Blay-Miezah, làm sáng tỏ cách hắn ta thực hiện những hành vi lừa đảo nhiều năm trời trong lúc sống xa hoa một cách đáng kinh ngạc ra sao. Là nhà báo tự do, tác giả đào sâu những kho lưu trữ tài liệu khắp Đại Tây Dương, bới tung những vụ án hình sự và thực hiện những cuộc phỏng vấn với các nạn nhân cũng như các cộng sự của hắn, bằng vào đó chị kể cho chúng ta không chỉ về Blay-Miezah mà còn về cái thế giới đã tạo điều kiện cho hắn phát đạt. Yeebo viết: “Họ nhìn thấy Blay-Miezah, trong trang phục một ông chủ sang trọng, đang thêu dệt một câu chuyện về châu Phi đen tối nhất, khối tài sản nhiều vô kể và một nhà lãnh đạo tham nhũng. Và bởi vì câu chuyện đó – và người đàn ông đó – vừa khớp với những ý niệm có sẵn trong đầu họ như khớp mộng, nên họ đã bịa nốt phần còn lại của câu chuyện cho chính mình.”

Tuy có một số phiên bản về cách dàn dựng vụ lừa đảo đầu tiên, nhưng đây là phiên bản phổ biến nhất: Năm 1972, trong phút lâm chung – chuyện là thế đấy – vị tổng thống đầu tiên của Ghana là Kwame Nkrumah tiết lộ ông ta đã giấu hàng chục ngàn thỏi vàng và lượng tiền mặt lên đến nhiều triệu đồng trong những hầm chứa tại ngân hàng ở Thụy Sĩ. Kho báu này được ủy thác mà chỉ riêng người bạn tâm giao của ông ta là Blay-Miezah mới có thể tiếp cận được. Một khi các điều kiện ủy thác được đáp ứng, khoản tiền đó sẽ được lấy ra, phần lớn dành để phát triển quốc gia Ghana. Phần còn lại sẽ thuộc về Blay-Miezah trung thành – và các nhà đầu tư của hắn.

Yeebo giải thích: “Ngay sau khi giành độc lập, trên thực tế đã có âm mưu mang kho vàng dự trữ của Ghana ra khỏi đất nước này”. Chị kể chi tiết về cách quản lý quỹ sai lầm vô phương cứu chữa của chính quyền thuộc địa Anh. Cảnh khốn cùng khiến người ta nảy ra câu hỏi tất cả tiền bạc đã đi đâu – cũng chừa lại vừa đủ lý do để nghi ngờ rằng câu chuyện của Blay-Miezah có thể là sự thật.

Minh tinh màn bạc người Mỹ gốc Hoa đầu tiên và cái giá của danh vọng chói ngời

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“Daughter of the Dragon” (“Long nữ”), cuốn tiểu sử mới về Anna May Wong nữ diễn viên chính trong bộ phim cùng tên, được dự định như một hình thức phục hồi và lật lại.

Theo nhà sử học điện ảnh Kevin Brownlow, đây là “một trong những bộ phim phân biệt chủng tộc nhất từng được sản xuất ở Mỹ”. Bộ phim “Old San Francisco” (“San Fransisco thời xưa”, trình chiếu năm 1927) có một nam diễn viên da trắng đóng vai một nhân vật phản diện Trung Hoa đội lốt một người đàn ông da trắng (bạn hiểu chứ?) định bán một cô gái da trắng vô tội làm gái mại dâm da trắng trước khi hắn bị đè bẹp bởi một trận động đất rất đúng lúc. Trước khi cái kết khủng khiếp của hắn xảy ra, kế hoạch hiểm độc của hắn được một nhân vật châu Á mà ta chỉ biết mỗi biệt danh là “đóa hoa phương Đông” trợ giúp, nhân vật này do diễn viên chuyên đóng vai cô gái ngây thơ có tên là Anna May Wong thủ vai.

Như Yunte Huang nhận định trong cuốn “Daughter of the Dragon” – câu chuyện ông kể về cuộc đời của Wong và thời đại mà cô sống – Hollywood bị phong cách ngoại lai của khu phố Tàu ám ảnh, tuy vậy vai diễn dành cho diễn viên châu Á lại cực kỳ ít ỏi; vì vậy khi Wong, một cô gái sinh ra ở tiệm giặt là của cha mình tại Los Angeles năm 1905, được phân nhiều vai như thế là điều lại càng đặc biệt hơn. Sự nghiệp của cô trải dài từ phim câm, phim nói và cuối cùng là truyền hình. Cô biểu diễn tại các chương trình tạp kỹ và sân khấu trình diễn. Cô sống ở châu Âu một thời gian ngắn hồi cuối những năm 1920, nơi cô gặp triết gia và nhà phê bình văn hóa Walter Benjamin (người gọi đùa cô là “một phong cách Trung Hoa xuất xứ Miền Tây”) và được chụp ảnh cùng Leni Riefenstahl và Marlene Dietrich (người sau đó sẽ xuất hiện cùng Wong trong bộ phim “Shanghai Express” (“Chuyến tàu tốc hành đi Thượng Hải”). Wong thậm chí còn biểu diễn tại nhà hát West End ở London, gây ấn tượng với các nhà phê bình bằng vũ điệu của cô trong khi bạn diễn của cô – chàng diễn viên Laurence Olivier trẻ tuổi – bị chỉ trích vì diễn xuất dở tệ.

August Wilson, người khổng lồ kịch nghệ đã quay tơ thành vàng trong các quán ăn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn tiểu sử lớn đầu tiên về nhà viết kịch này thuật chuyện về cuộc đời và tầm nhìn vô hạn của ông.

Năm 1986, David Mamet xuất bản cuốn sách hay nhất của mình, một chuyên luận mỏng kiểu bán-trinh-thám về kịch nghệ sân khấu và đời sống có tựa đề “Writing in Restaurants” (“Viết lách trong nhà hàng”). Đó là câu chuyện hàng thập kỷ trước khi ông trở thành “Kanye West của giới văn chương Mỹ”, theo cách diễn đạt của hãng truyền thông The Forward hồi năm ngoái. Hỡi ôi, cuốn sách chỉ loáng thoáng đề cập đến các nhà hàng.

Tiêu đề cuốn sách của Mamet trở lại với tôi khi tôi đang đọc cuốn tiểu sử của Patti Hartigan về August Wilson, một nhà viết kịch quan trọng khác của Mỹ. Wilson, qua đời năm 2005, đã bỏ ra nhiều thời gian nấn ná ở các quán ăn đến mức “Writing in Restaurants” là phụ đề hợp lý có thể lựa chọn để thay thế cho “August Wilson: A Life” (“August Wilson: Một cuộc đời”) của Hartigan.

Wilson là người đàn ông to lớn, để râu, thường mặc com-lê vải tuýt-xi và đội mũ cát-két. Ông thường ngồi ở phía trong cùng với tách cà phê và chiếc gạt tàn đầy ắp. (Ông hút năm bao thuốc mỗi ngày và không ngừng hút kể cả khi đang tắm.) Ông viết lên giấy ăn hoặc hóa đơn, bất kỳ thứ gì thuận tay vớ được.

Một trong những vở kịch đầu tay của ông là “Jitney” (“Taxi dù”) được viết trong nhà hàng fast-food Arthur Treacher’s Fish & Chips. Khi danh tiếng của ông ngày càng lên, ông tìm một địa điểm ở mỗi thành phố nơi các vở kịch của ông được trình diễn. Ông gọi chỗ này là “the Spot” (“Nơi chốn”). Ở thành phố New York, ông thích vẻ đẹp hoang tàn của quán cà phê tại Hotel Edison, nơi thường được những vị khách hàng thân thiết gọi là Phòng trà Ba Lan. Ở Boston là quán Ann's Cafeteria. Ở Seattle là Caffe Ladro. Ông mang theo mấy tờ báo, và đôi khi là một người bạn. Suốt bữa sáng, ông nói năng hùng hồn thú vị khiến mọi người vây quanh chăm chú lắng nghe bốn hoặc năm giờ mỗi bận. Đó là phần sân khấu thể nghiệm hằng ngày của ông.

Wilson là người có tài kể chuyện, có óc tò mò nhanh nhạy của một người tự học. Ông sinh ra ở Pittsburgh năm 1945, con của một bà mẹ da đen đơn thân, người đã nuôi nấng ông và các anh chị em ruột của ông chủ yếu bằng tiền phúc lợi. Ông khai thác thành phố đó, đặc biệt là Quận Hill với bề dày lịch sử của người Mỹ gốc Phi, như thể nó là mỏ than; ông đang bòn rút một vỉa than. Ngôi nhà đầu tiên của gia đình ông không có nước nóng và có một nhà vệ sinh ở sân sau. Wilson bỏ trường trung học và tại ngũ một thời gian ngắn. Ông tự học trong các thư viện ở Pittsburgh theo cùng một cách mà Ta-Nehisi Coates kể về việc anh tự học ở Đại học Howard: “ba phiếu mượn sách mỗi lần”.

Ông nghĩ mình có thể là một nhà thơ. Bài thơ đầu tiên của ông rất hoa mỹ và nhờ ơn Dylan Thomas; nó biến ông thành nhân vật bị chế nhạo nhẹ nhàng. Ông phát hiện ra ca sĩ Bessie Smith và dòng nhạc blues, và ông bất chợt rẽ ngang sang kịch nghệ sân khấu. Amiri Baraka là người có ảnh hưởng quan trọng; nhà thơ kiêm nhà soạn kịch và nhà hoạt động này đến Pittsburgh năm 1968, vào thời kỳ đỉnh cao của phong trào Quyền lực cho người Da đen, và đọc một bài diễn văn đầy khích động. Khi đó Wilson 23 tuổi.

Baraka thành lập Nhà hát/Trường Nghệ thuật Kịch mục Da đen ở Harlem năm 1965. Wilson và những người bạn trong giới nghệ thuật của ông quyết định khởi lập nhà hát của riêng họ, gọi là Black Horizons (Những chân trời Đen). Không ai tình nguyện lãnh đạo nó, và Wilson mặc nhiên được chọn. Có bột mới gột nên hồ, và Wilson bắt đầu viết. Lời thoại hoàn toàn có sẵn đó rồi; tiếng nói người Mỹ gốc Phi của cả một thành phố tuôn trào từ ông. Ông có một sức tưởng tượng tự-làm-đầy.

Trên TV những loại nấm sát thủ là một kịch bản phim kinh dị. Trong cuốn sách này chúng có thật.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “Blight” (“Lụi tàn”) của tác giả Emily Monosson ghi chép lại những mối đe dọa mà mầm bệnh nấm gây ra cho con người và động thực vật như những tác nhân gây bệnh khốc hại nhất thế giới.

Trong cuốn tiểu thuyết “White Noise” (“Tiếng ồn trắng”) của Don DeLillo có một cảnh, trong đó nhân vật chính nhớ về người vợ cũ, mà theo lời của chính người vợ này thì cô “cực kỳ mẫn cảm với nhiều thứ”. Anh ta kể: “Ánh sáng mặt trời, không khí, thức ăn, nước uống, tình dục”. Cô ấy đánh đồng hết thảy: "Có khả năng gây ung thư, tất cả những thứ đó."

Sự sống có thể là thứ gây chết chóc – Tôi thấy mình rơi dần vào trạng thái kiểu hoang tưởng bủa vây bốn phía này khi đọc cuốn sách mới khiến người ta lo lắng của Emily Monosson, “Blight: Fungi and the Coming Pandemia” (“Lụi tàn: Nấm và Đại dịch sắp tới”). Nấm có ở khắp mọi nơi và hiện đang ở thời kỳ cực thịnh, với những bộ phim tài liệu như “Fantastic Fungi” (“Những loại nấm kỳ diệu”, trình chiếu năm 2019) của Louie Schwartzberg và những cuốn sách như “Entangled Life” (“Sự sống phức rối”, ra mắt năm 2020) của Merlin Sheldrake cho chúng ta biết về tất cả những gì hữu ích mà nấm có thể làm – mở rộng nhận thức của chúng ta, dọn sạch dầu tràn, giúp cây chia sẻ chất dinh dưỡng dưới tầng đất rừng.

Cuốn sách của Monosson luận bàn đến mặt trái của nấm. Giống như “The Last of Us” (“Những người cuối cùng còn lại trong số chúng ta”), trò chơi điện tử đồng thời là bộ phim truyền hình dài tập của HBO dựa trên giả thuyết một đại dịch nấm biến con người thành những xác sống, cuốn “Blight” nhấn mạnh những điều vô cùng tai hại mà nấm có thể làm: “Nhìn chung, các loại nấm truyền nhiễm và các mầm bệnh dạng nấm là những tác nhân gây bệnh khốc hại nhất mà ai cũng biết trên hành tinh này.”

Bà mở đầu cuốn sách của mình với Candida auris, loại nấm phát triển mạnh trong vài năm gần đây, len lỏi khắp các bệnh viện và lây nhiễm cho những bệnh nhân có hệ thống miễn dịch đã bị suy yếu bởi các bệnh khác. Các bệnh nhiễm nấm ngoài da thường không nguy hiểm đến tính mạng; nguy hiểm là khi nấm xâm nhập vào máu thì chúng có thể gây chết người. Là loại động vật máu nóng, con người và các động vật có vú khác được ban cho một mức độ bảo vệ nhất định: Hầu hết loại nấm thích nhiệt độ thấp hơn; chúng ta lại tỏa thân nhiệt quá cao trong quá trình hoạt động.

Song sự nóng lên toàn cầu và những tiến bộ y tế đang làm tình hình thay đổi, Monosson cho biết. Một số loại nấm có thể đang tiến hóa để chịu được nhiệt độ cao hơn; bà giải thích cách bệnh nấm sâu Coccidioidomycosis [valley fever], do bào tử nấm trong đất ở miền Tây Nam [nước Mỹ] gây ra, có nhiều khả năng lây lan rộng hơn khi khí hậu thay đổi. Tuy việc cấy ghép nội tạng và điều trị ung thư đang cứu sống nhiều người, nhưng đồng thời cũng đang tạo ra một nhóm dân số bị suy giảm miễn dịch ngày càng tăng. Monosson viết: “Chúng ta đang sống thọ hơn và khỏe hơn nhưng ngày càng dễ bị nấm xâm nhiễm hơn”. Và bởi vì các tế bào nấm có một số điểm tương đồng về cấu trúc với tế bào của chúng ta nên rất khó để phát triển các loại thuốc nhằm tiêu diệt chúng mà không gây hại cho chúng ta. Amphotericin, loại thuốc kháng nấm ra mắt năm 1959, có tác dụng phụ khủng khiếp và có khả năng gây tử vong đến mức bác sĩ gọi nó là “Ampho tai hại”.

Có lý do để cổ vũ cho tế bào và những loại virus được nuôi bằng chúng

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Hai cuốn sách mới khiến người ta chú ý vào những khám phá cũ có tiềm năng chữa khỏi những chứng bệnh nan y và phát lộ những bí mật sinh học.

Những năm 1910, hơn một thập kỷ trước khi phát hiện ra penicillin, Felix d'Herelle, nhà vi trùng học có phong cách tự-thân, đang nuôi cấy vi khuẩn gây tiêu chảy trong phòng thí nghiệm. Là nhà khoa học ít bằng cấp và xuất thân mơ hồ – chẳng ai biết ông là người Pháp, người Bỉ hay người Canada – d'Herelle hy vọng gây ra bệnh dịch tiêu chảy giữa nạn dịch châu chấu đang hoành hành ở Mexico và bằng cách đó tiêu diệt chúng.

Trong khi nuôi cấy món súp vi khuẩn chết người của mình, ông nhận thấy thứ gì đó lạ lùng. Một thực thể bí ẩn để lại những lỗ hổng trên một trong những mảng vi khuẩn mỏng của ông. Ông lấy mẫu từ bên trong các lỗ, phết chúng lên những đĩa vi khuẩn khác và thu được kết quả tương tự. Nhiều lỗ hơn! Ông biết mình đã nắm được cái gì đó, nhưng nó là gì? Thủ phạm, mà hồi sau mới biết, là một thể thực khuẩn, một loại virus “ăn thịt” vi khuẩn.

Trong khi các sự kiện gần đây cho chúng ta lời nhắc nhở đau đớn về những loại virus vô cùng độc hại làm chúng ta khốn đốn, cuốn “The Good Virus” (“Virus hữu ích”) của Tom Ireland là câu chuyện sinh động mang tính cứu rỗi về thể thực khuẩn cực kỳ phong phú song thường bị phớt lờ, và về tiềm năng của nó có thể dập tắt mối đe dọa hiện hữu của sự kháng thuốc kháng sinh, sự kháng thuốc mà các nhà khoa học ước tính đến năm 2050 có thể gây ra 10 triệu ca tử vong mỗi năm. Là nhà báo khoa học từng đoạt giải thưởng, Ireland tiếp cận chủ đề cuốn sách đầu tay của mình với sự tò mò và đam mê, mang đến cho độc giả câu chuyện kể tài tình, phong phú và dễ tiếp cận.

Trong tay của d’Herelle và những người khác, thể thực khuẩn này đã trở thành công cụ đắc lực trong cuộc chiến chống lại dịch tả. Thế nhưng vào những năm 1940, khi việc phát hiện ra các phương pháp sản xuất penicillin ở quy mô công nghiệp dẫn đến “kỷ nguyên kháng sinh”, liệu pháp thực khuẩn bắt đầu bị coi là thủ đoạn lang băm ở châu Âu và châu Mỹ, mà theo giả thuyết của Ireland, một phần là bởi, không giống như các thể thực khuẩn, thuốc kháng sinh phù hợp với khuôn mẫu của xã hội tư bản chủ nghĩa,.

Các nhà tư bản rất thích bằng sáng chế. Một sự châm biếm tức cười của hệ thống bằng sáng chế là ta không thể cấp bằng sáng chế cho tất thảy những thứ ở dạng thiên nhiên, nhưng đôi khi ta có thể cấp bằng sáng chế cho phương thức ta chiết xuất các sản phẩm phụ của chúng. Các loại thuốc kháng sinh đầu tiên, là những chất tiết ra từ nấm, dễ dàng được cấp bằng sáng chế ở Mỹ hơn so với các thể thực khuẩn, vốn là virus toàn phần.

Các nhà vi trùng học thời kỳ đầu thường thu hoạch các thể thực khuẩn từ một bệnh nhân và đưa chúng vào một bệnh nhân khác mắc bệnh tương tự, song chẳng có cách nào là dễ dàng để tách loại virus có ích ra khỏi mọi chất có thể gây ô nhiễm khác. Các thể thực khuẩn cũng chỉ cho kết quả tốt nhất đối với các loài vi khuẩn riêng biệt, vì vậy chúng kém hiệu quả hơn so với các loại thuốc kháng sinh như penicillin, những loại thuốc có thể tấn công những mầm bệnh trên phổ rộng hơn nhiều.

Liệu pháp thể thực khuẩn tạo được danh tiếng tốt đẹp hơn ở Liên Xô hầu như chỉ vì tư tưởng hận thù, đặc biệt là sau khi các siêu cường kình địch với nhau đã biến các phương pháp sản xuất penicillin của phương Tây thành một bí quyết trong Chiến tranh Lạnh. Độc dược từ thể thực khuẩn phát triển mạnh ở Tbilisi, Georgia, nơi công trình của d’Herelle truyền cảm hứng cho các nhà nghiên cứu thành lập một viện nghiên cứu do nhà nước tài trợ. Ireland kể câu chuyện hấp dẫn về sự kiện các thể thực khuẩn thu được từ xác chết của lính Đức giúp Liên Xô đánh bại Đức quốc xã khi dịch tả bùng phát trong cuộc bao vây Stalingrad ra sao.

Bói lá trà xem cái kết cuộc chiến ở Ukraine

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Trong một số cuốn sách gần đây, các chuyên gia về Nga và Ukraine cân nhắc tầm quan trọng của Tập đoàn Wagner và cố gắng tiên đoán cuộc xâm lược của Putin sẽ diễn tiến ra sao.

Cuộc xâm lược của Nga vào đất Ukraine khởi đầu từ Tháng Hai năm ngoái đã dẫn đến cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Âu trong nhiều thế hệ. Thậm chí trước khi Tập đoàn Wagner – lực lượng bán quân sự với 50.000 lính tinh nhuệ trước đó từng chiến đấu sát cánh cùng binh lính Nga – tuần trước giành quyền kiểm soát các địa điểm quân sự ở thành phố Rostov trên sông Đông ở phía tây nam nước Nga, với mục đích tuyên bố ra ngoài là để lật đổ bộ chỉ huy quân sự của Moscow, thì cuộc xâm lược Ukraine có vẻ như là một thất bại lớn đối với kẻ châm ngòi chiến tranh: Tổng thống Vladimir Putin. Trong vòng một tháng kể từ khi cuộc chiến tranh nổ ra, nó đã trở thành “sai lầm có tầm vóc lịch sử”, như cách diễn đạt của một phóng viên kỳ cựu của Ukraine gần đây. Thế nên chẳng lấy gì làm lạ khi năm nay đã xuất hiện một số cuốn sách mới nhằm tóm lược cuộc xung đột đó và suy ngẫm xem cái kết của nó có thể sẽ như thế nào.

Khi cân nhắc xem cuộc chiến sẽ đi đến đâu, thật hữu ích nếu bắt đầu bằng cách ghi nhớ cho đến nay nhiều nhà quan sát Nga đã sai lầm đến thế nào về diễn biến của nó. Quay lại thời điểm cuộc chiến mới bắt đầu, tờ báo Nga Izvestia đảm bảo Ukraine sẽ thất bại trong vòng năm ngày kể từ cuộc tấn công đầu tiên. Năm tuần sau cuộc xâm lược đó, người phát ngôn của Putin tuyên bố rằng quân đội Ukraine “đã bị tiêu diệt phần lớn”.

Song một cuộc chiến nhằm làm suy yếu các nhà lãnh đạo của Ukraine và NATO trái lại đã khiến cả hai trở nên mạnh mẽ hơn. Bulgaria, Romania và ba quốc gia vùng Baltic đều lên tiếng cực lực phản đối những hành động của Putin. Một thực tế ít được phương Tây chú ý hơn là cuộc chiến của Nga cũng khiến các quốc gia thuộc Liên Xô cũ như Azerbaijan và Kazakhstan trở nên kém thân thiện với Nga đến mức nào.

Công bằng mà nói, nhiều nhà phân tích không phải của Nga cũng đoán trật lất. Ngay trước cuộc chiến này, nhà sử học người Mỹ gốc Scotland Niall Ferguson viết rằng Ukraine sẽ "không nhận được sự hỗ trợ quân sự đáng kể nào từ phương Tây" và phỏng đoán về địa điểm diễn ra lễ duyệt binh mừng chiến thắng của Putin. Khi cuộc xâm lăng mở màn, có tin là vị Bộ trưởng tài chính Đức và cũng là một sĩ quan trong Lực lượng Dự bị Không quân Đức nói với vị đại sứ Ukraine rằng cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc chỉ sau vài giờ. Vị đại sứ đã rơi nước mắt.

Vậy thì bây giờ xem ra ai là người đoán trúng?

Cuốn sách kích thích tư duy nhất trong loạt sách mới về cuộc chiến ở Ukraine là cuốn RUSSIA AGAINST MODERNITY (NƯỚC NGA CHỐNG LẠI SỰ HIỆN ĐẠI), cuốn sách ngắn gọn và sâu sắc của Alexander Etkind (NXB Polity, 166 trang, bìa mềm, giá 19.95 USD). Cuốn sách được đặt vào bối cảnh tương lai và được coi là phân tích hậu chiến về nguyên nhân vì đâu Nga bị chiến bại ở Ukraine. Etkind, giáo sư tại Đại học Trung Âu ở Vienna, phát triển những phỏng đoán của mình từ những khiếm khuyết của xã hội mà Putin xây dựng – một quốc gia phản dân chủ, sống nhờ vào dầu mỏ với bề dày lịch sử 2/3 kim ngạch xuất khẩu dựa vào nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ và khí đốt. Việc khai thác dầu khí chủ yếu được kiểm soát ở Nga bởi các chính trị gia và cựu nhân viên an ninh, những người coi trọng lòng trung thành chính trị hơn năng lực quản lý rất nhiều.


Etkind mô tả cuộc xâm lược của Putin là "cuộc chiến tranh giữa các thế hệ", ông lưu ý rằng nội các Ukraine được cấu thành với đa số là những người dưới 50 tuổi, trong khi đó hầu hết thành viên trong nội các Nga đều lớn tuổi hơn. Ông ám chỉ rằng các quan chức điều hành nước Nga của Putin biết rõ họ không thể cạnh tranh trong một thế giới hậu-dầu-mỏ, và bởi vậy họ thấy bị sự hiện đại đe dọa về mọi mặt, từ nền dân chủ đến biến đổi khí hậu cho đến sự khoan dung đối với giới đồng tính luyến ái. Etkind mô tả các nhà lãnh đạo Nga như những hóa thạch sống đang sống nhờ vào nhiên liệu hóa thạch. Quan điểm của ông có lý: Lần cuối cùng người ta mua một con chip máy tính do Nga sản xuất là khi nào vậy?


Góc nhìn hay nhất về cuộc chiến thực sự có lẽ là cuốn OVERREACH: The Inside Story of Putin’s War Against Ukraine (MƯU CAO: Câu chuyện nội tình về cuộc chiến của Putin chống lại Ukraine) (NXB Mudlark, 414 trang, bìa mềm, gia 21.99 USD) của nhà báo Owen Matthews. Ông cho chúng ta góc nhìn bao quát trung thực, sáng rõ về các cấp độ khác nhau của cuộc xung đột này, từ mặt trận đến lập trường của các chính phủ tham chiến cho đến tác động lên thường dân.

Matthews, phóng viên thường trú ở Nga của tạp chí tuần tin tức The Spectator, trước đây từng làm việc ở Nga cho cả tờ The Moscow Times và tạp chí tuần tin tức Newsweek. Cuộc bàn luận bi quan của ông về nguyên nhân vì sao hầu hết người Nga ủng hộ cuộc chiến của Putin, chí ít là cho đến gần đây, đang dóng hồi chuông cảnh tỉnh. Sự phụ thuộc của quân đội Nga vào bọn lính đánh thuê cấu thành Tập đoàn Wagner là then chốt của vấn đề. Wagner chiêu mộ tân binh trong số “những tên trộm cắp và những kẻ giết người, những đứa trẻ nghèo từ các tỉnh vùng xa và lính tráng từ các nước cộng hòa dân tộc thiểu số hẻo lánh”, Matthews viết. “Việc dành riêng thương vong cho một đội quân cảm tử đã làm giảm khả năng xảy ra phản ứng dữ dội của quần chúng.”

Một nỗ lực báo chí khác, không triệt để bằng nỗ lực của Matthews, là cuốn THE WAR CAME TO US: Life and Death in Ukraine (CUỘC CHIẾN ĐÃ ĐẾN CHỖ CHÚNG TÔI: Sống và chết ở Ukraine) (NXB Bloomsbury, 374 trang, giá 28 USD) của Christopher Miller. Miller, phóng viên thường trú ở Ukraine của tờ The Financial Times, dành hơn một thập kỷ cho việc đưa tin từ đất nước này. Cuốn sách cho tôi cảm tưởng giống như “bản sắp xếp lại sổ tay ghi chép” của một phóng viên, mà trong đó tác giả đơn giản chỉ ném những ghi chú hiện trường cũ vào bản thảo mới. Cũng như nhiều cuốn sách khác về chiến tranh, Miller không đi sâu vào cuộc xâm lược của Nga ở quy mô toàn diện cho đến hơn một nửa cuốn sách của anh – nhưng khi đã đi sâu vào, anh đặc biệt tài tình trong việc kể lại những ngày đầu hỗn loạn, bấp bênh của cuộc chiến. Theo tường thuật của Miller, một số quan chức an ninh Ukraine đang hợp tác với người Nga và các phần tử nằm vùng của Nga ở Kyiv được kích hoạt để tiến hành những vụ ám sát và phá hoại.


Cuốn THE RUSSO-UKRAINIAN WAR: The Return of History (CUỘC CHIẾN TRANH NGA- UKRAINE: Lịch sử lặp lại) (NXB Norton, 376 trang, giá 30 USD) của nhà sử học Ukraine Serhii Plokhy có phần khô khan hơn, dù ông chắc hẳn đã đúng khi lưu ý rằng một tác động của cuộc xâm lược đó đã nhìn thấy rõ: “Dân tộc Ukraine sẽ trỗi dậy sau cuộc chiến này đoàn kết hơn và chắc chắn về bản sắc của mình hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử hiện đại của dân tộc ấy”.

Cuốn sách PUTIN’S WAR ON UKRAINE: Russia’s Campaign for Global Counter-Revolution (CUỘC CHIẾN CỦA PUTIN VỚI UKRAINE: Chiến dịch phản cách mạng toàn cầu của Nga (NXB Đại học Oxford, 603 trang, giá 29,95 USD) của Samuel Ramani là cuốn sách khó đọc, nhưng những mô tả bách khoa của nó có thể cho ta những chi tiết thú vị và phân tích chiến thuật đáng tin cậy nào đó. Thật thú vị khi anh lưu ý rằng sự phụ thuộc của Putin vào Tập đoàn Wagner “cho phép ông ta tạo ra một quyền lực từ trên xuống để thay thế , quyền lực này củng cố sự kiểm soát của cá nhân ông ta đối với chính sách an ninh” và “che chở cho Putin khỏi một cuộc đảo chính nội bộ khi chiến tranh không diễn tiến theo đúng kế hoạch”.

Là chuyên gia về chính trị và quan hệ quốc tế tại Oxford, Ramani lập luận rằng các đồng minh kém hiệu quả nhất của Nga trong cuộc chiến là các đơn vị Chechnya. Điểm yếu của quân Chechnya, như anh nói, là họ đã quen với việc đàn áp dân thường và không chiến đấu với các đối thủ có vũ trang trên chiến trường. Tổng thống Volodymyr Zelensky của Ukraine vẫn sống sót sau hàng chục vụ mưu sát. Thật may cho ông này, nhiều vụ trong số đó, như tin đã đưa, là do các đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt Chechnya được Putin giao nhiệm vụ ám sát thực hiện, trong khi những vụ khác do Tập đoàn Wagner tiến hành.

Một câu hỏi cứ ám ảnh mọi nơi là liệu Nga cuối cùng có sẽ chiến bại hay không. Tuyên ngôn chính thức trong chính quyền Putin là Nga sẽ thắng thế nhờ “các quá trình lịch sử khách quan”, theo cách diễn đạt của Ngoại trưởng Sergey Lavrov. Kết luận của Ramani cũng tờ mờ gần như thế: “Nga không thể chiến thắng và không thể để mình chiến bại trong cuộc chiến này.”

Matthews, sáng tỏ hơn chút ít, lập luận rằng cuộc chiến tranh này chỉ có thể kết thúc bằng một cuộc thương lượng hòa giải, mà Putin sẽ tô hồng là một chiến thắng. Ông cũng phỏng đoán dẫu rằng sau đó Putin có bị hạ bệ, thì ông ta có thể sẽ bị thay thế bởi một người theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu cứng rắn, hàm ý một Putin bị tổn hại còn tốt hơn một Putin bị lật đổ.

Plokhy, bất chấp dự đoán của mình về dân tộc Ukraine đoàn kết lại, lập luận rằng Ukraine sẽ mất một phần lãnh thổ của mình vào phạm vi ảnh hưởng của Trung-Nga, với đường phân chia tượng trưng cho Bức màn sắt của thế kỷ 21.

Etkind, người có sức thuyết phục nhất trong số này, dự đoán một kết quả khác xa: Không những Putin sẽ thua mà hậu quả là Liên bang Nga sẽ tan rã, hàm ý rằng Chechnya và các khu vực khác sẽ lơi lỏng quan hệ với Moscow hoặc trở nên hoàn toàn độc lập. Tôi đồ rằng ông đoán đúng. Năm 2005, ai cũng biết là Putin đã than thở rằng sự sụp đổ của Liên Xô là “thảm họa địa chính trị vô cùng to lớn” của thế kỷ 20. Sẽ thật mỉa mai nếu cuộc chiến của ông ta hoàn tất sự tan rã của Liên Xô.

Song cuộc chiến ở Ukraine cho tới giờ đã bỡn cợt nhiều nhà quan sát và những người tham gia, vậy nên chúng ta cần cẩn trọng đừng đặt quá nhiều niềm tin vào bất kỳ lời tiên đoán nào.

Từ những lá bài Tarot đến thiết kế tối giản, chúng ta không đừng được việc dự đoán tương lai

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Trong cuốn “A Century of Tomorrows” (“Một thế kỷ trong tương lai”), tác giả Glenn Adamson cho ch...