Search This Blog

Showing posts with label Takya Đỗ. Show all posts
Showing posts with label Takya Đỗ. Show all posts

Thursday, October 24, 2024

Tài năng, ma lực, tiền bạc, lừa đảo: Chào mừng đến với Thế giới Mỹ thuật

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Orlando Whitfield (bên trái) và Inigo Philbrick. Philbrick thú nhận trước tòa rằng anh ta đã vượt xa những ranh giới vốn đã bị xóa mờ của sự quảng cáo thổi phồng trên thị trường nghệ thuật và “tham gia một cách có chủ ý” vào một âm mưu lừa đảo, đã có lần bán cổ phần của một bức tranh lên đến 220% giá trị tác phẩm.

Cuốn hồi ký của một cựu thương nhân buôn bán những tác phẩm đắt giá nhất miêu tả một ngành hầu hết không bị quản lý, nơi sự chơi ngông của các đại gia thường đi đôi với thủ đoạn xảo quyệt và gian manh.

Chẳng ai thích thú với việc bị coi là kẻ ngu ngốc, nhưng trong số chúng ta có vô khối người thích thú với những câu chuyện về những kẻ lợi dụng lòng tin để thực hiện việc lừa đảo: bọn lừa đảo và bọn bịp bợm đồng lõa lập mưu với nhau để trở thành những kẻ vô cùng giàu có – đặc biệt nếu những câu chuyện đó cho chúng ta một kết cục thỏa mãn về một sự sụp đổ ngoạn mục.

Hồi tháng 10/2019, khi một thương nhân trẻ tuổi kinh doanh các tác phẩm mỹ thuật có cái tên rất kịch nghệ là Inigo Philbrick bị buộc tội lừa đảo hàng triệu đô-la của các nhà đầu tư, nhà sưu tập và người cho vay, gã đã trốn khỏi Miami đến đảo Vanuatu ở Nam Thái Bình Dương. Từ nơi đó, gã bắt đầu gửi tin nhắn và tài liệu cho Orlando Whitfield, bạn học cũ ở trường mỹ thuật, và cũng là đối tác kinh doanh một thời gian ngắn.

“Tôi không biết liệu mình có bị liên can đến những cáo buộc chống lại anh ta hay không,” Whitfield viết trong “All That Glitters” (“Những gì lóng lánh”), cuốn hồi ký thú vị về tình bạn kỳ lạ và ngoắt ngoéo của họ. Ngoài “mối quan tâm bè bạn”, Whitfield – người tự nhận trong tiểu sử là “một thương nhân mỹ thuật thất bại” – cũng thừa nhận cảm thấy hãnh diện khi một kẻ chạy trốn đã gửi tin nhắn trên Telegram cho mình từ “nơi ẩn náu trên đảo hoang của anh ta”. “Thật ly kỳ gay cấn,” Whitfield nhớ lại, “cứ như được mời vào hội kín vậy”.

Đó là thứ tình cảm có thể cũng diễn tả phần lớn mối quan hệ của họ qua năm tháng: Philbrick bảnh bao lịch lãm dẫn dắt Whitfield dễ bị ấn tượng vào những bí ẩn của thị trường mỹ thuật đương đại. Chí ít thì đó là cách Whitfield kể câu chuyện này – đa phần là thuyết phục, dẫu rằng bức chân dung tự họa tô đậm sắc màu vẽ anh ta như một kẻ Hồn nhiên Vô tội [Innocent Naïf] được cường điệu hơi quá mức. Whitfield biết rằng anh ta không thể khẳng định một cách đáng tin rằng anh ta hoàn toàn mù tịt về cách thức thị trường mỹ thuật vận hành ra sao. Cha anh ta là giám đốc điều hành của Christie’s, nhà đấu giá danh tiếng của Anh quốc; ngay sau khi gặp Philbrick, Whitfield đã có một kỳ thực tập mùa hè tại Christie's ở New York.

Song sự tinh thông thành thạo của người cha “về đồ nội thất cổ và đồ đồng thời Phục hưng” chẳng mang lại lợi thế nào cho “sự phi lý sến súa tầng tầng lớp lớp và chủ nghĩa tư bản muộn phù phiếm mà bối cảnh mỹ thuật quốc tế hiện nay đang thể hiện”, theo lời Whitfield. Anh ta đến Goldsmiths, ngôi trường ở London nổi tiếng với các chương trình nghệ thuật, với mong muốn thoát khỏi thế giới lỗi thời của “những Tarquin[1] mặc quần đỏ và những Camilla ở Home Counties có bộ ngực nở nang”. Khi gặp Philbrick lần đầu hồi năm 2007, Whitfield vẫn đang tìm hiểu về sở thích của chính mình. “Tôi hầu như chẳng biết cái tôi thích là gì,” anh ta viết trong khi hồi tưởng lại những bất an và bối rối thời đầu xanh tuổi trẻ của mình. “Tôi đã luôn khao khát sự tự tin mà Inigo dường như đã có sẵn.”

Philbrick tạo ra một vẻ ngoài thật hấp dẫn: một người Mỹ có quan hệ với những người quan trọng và quyền lực, có dòng dõi tổ tiên và sở hữu giọng nói vùng Trung Đại Tây Dương cho phép gã qua lại với giới nhà giàu ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Mẹ gã là một nghệ sĩ; cha gã là giám đốc Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Aldrich ở Connecticut. Philbrick và Whitfield nhanh chóng chuyển từ việc hít cocaine trên bìa một cuốn tiểu thuyết của Edward St. Aubyn sang môi giới các vụ giao dịch thông qua một hãng tồn tại không lâu mà họ đặt tên là I & O Fine Art.

Whitfield kể lại một cách tài tình những chiến công của họ khi di chuyển các tác phẩm nghệ thuật và tiền bạc vòng quanh thế giới, cũng như những nỗ lực rất ngớ ngẩn của họ để mua được một tác phẩm của Banksy. (Một tác phẩm được vẽ bằng khuôn giấy stencil trên một cánh cửa kim loại lem nhem; một tác phẩm khác trên tường của một cửa hàng xe scooter.) Thậm chí sau khi họ giải thể đại lý ủy quyền của mình, Philbrick vẫn thuê Whitfield làm việc tại một công ty kinh doanh tác phẩm nghệ thuật mua đi bán lại được thành lập bởi Jay Jopling, nhà sáng lập phòng trưng bày White Cube ở London.

“Tôi hoàn toàn không đủ trình độ,” Whitfield nói về công việc mà Philbrick thuê anh ta làm, công việc này đòi hỏi phải quản lý danh mục tác phẩm và các cuộc triển lãm. Nhưng Whitfield có thể bám trụ được khi kinh qua những tình huống cực kỳ căng thẳng. Một phân cảnh hấp dẫn cho thấy anh ta toát mồ hôi tại sân bay Heathrow, bộ âu phục của anh ta dính chặt vào một vết thương không đúng lúc trên ống chân. Anh ta được giao nhiệm vụ mang lậu một bức tranh của Lucien Freud trên chuyến bay đến New York (bức tranh không có giấy tờ chứng nhận) và buộc phải băng bó vết thương của mình dưới ánh mắt nghi ngờ của một sĩ quan cảnh sát rất to con.

Từ đầu đến cuối cuốn sách, Whitfield liên tục tỏ ý cho độc giả biết trước về “sự miễn cưỡng và nỗi lo âu” của anh ta, mặc dù anh ta đã tự mình mở phòng trưng bày của riêng mình cùng với một người bạn, mà biết chắc rằng sẽ chẳng cho Philbrick hay đến tận phút cuối. Chẳng mấy chốc Whitfield sẽ nói dối Philbrick và một bên khác để tạo điều kiện thuận lợi cho một vụ mua bán trị giá hàng trăm nghìn đô-la.

Song toàn bộ việc này đã trở nên quá mức đối với Whitfield, người không thể nhượng bộ những thỏa thuận miệng và sự lừa dối thường nhật khiến anh ta cảm thấy tròng trành như người đi biển, chao đảo từ vận may sắp đến tới sự phá sản lơ lửng trên đầu. Năm 2018, anh ta phải vào khoa tâm thần điều trị sau một cơn suy sụp tinh thần. Ở đó, khi đang vật lộn với việc cai thuốc Xanax, anh gặp một bệnh nhân tóc bạc, tình cờ lại là một “nghệ sĩ rất nổi tiếng”. Lắng nghe những điều phiền muộn trong thế giới mỹ thuật của Whitfield, nghệ sĩ ấy nói với anh ta – bằng câu nói hầu như khuôn sáo dành cho bản chuyển thể thành phim HBO hình như đang được sản xuất – “Hãy thoát ra khi cậu vẫn còn có thể”.

Ở một phương diện, “All That Glitters” là câu chuyện về cách thức hoạt động của một thị trường không bị quản lý. Gã Philbrick khôn ngoan lọc lõi, kẻ luôn có khả năng nắm bắt các cơ hội và phần thưởng, đã định vị được những điểm yếu trong hệ thống và nhấn lên đó một cách thích hợp. “Một số hành động của anh ta – lúc này bị nhiều người chỉ trích – là thói thường xưa nay vẫn thế, thậm chí còn được khuyến khích,” Whitfield nhận xét. Những gì thị trường mỹ thuật coi là “sự khôn ngoan cẩn trọng” thường có nghĩa là “cố tình tung hỏa mù hoặc hoàn toàn dối trá”. Song Philbrick cuối cùng đã thú nhận trước tòa rằng anh ta đã vượt xa những ranh giới vốn đã bị xóa mờ của sự quảng cáo thổi phồng trên thị trường nghệ thuật và “tham gia một cách có chủ ý” vào một âm mưu lừa đảo, đã có lần bán cổ phần của một bức tranh lên đến 220% giá trị tác phẩm – “điều đó dĩ nhiên có nghĩa là vẽ thêm vào đó 120% so với giá trị thực,” Whitfield lưu ý một cách châm biếm.

Về phần mình, Whitfield không thể chịu đựng được hiện tượng bong bóng của một thị trường mỹ thuật đã không còn có lý nữa. Sau khi ra viện, anh ta học nghề với một nhà bảo tồn và phục chế, thấy tĩnh tâm và thích thú khi xử lý những mảnh giấy bị ố vàng chỉ bằng tay không và cạo sạch phân côn trùng bằng dao mổ. Anh ta đã để lại trò phù thủy về tài chính cho những kẻ thích bày đặt ra những cách mới để “buôn bán những thứ trừu tượng trong nghệ thuật”.

Rốt cuộc, Whitfield đã biết cái mình thích là gì: “Tôi đứng trước một tác phẩm nghệ thuật và chỉ ngắm nhìn thôi”.

[1]Có thể ám chỉ: Lucius Tarquinius Priscus, vị vua huyền thoại thứ năm của Rome (616–578 TCN) hoặc Lucius Tarquinius Superbus, vị vua huyền thoại thứ bảy và cuối cùng của Rome (534–510 TCN)

ALL THAT GLITTERS: A Tale of Friendship, Fraud, and Fine Art | By Orlando Whitfield | Pantheon | 323 pp. | $29

Jennifer Szalai is the nonfiction book critic for The Times.

Talent, Glamour, Money, Fraud: Welcome to the Art World https://www.nytimes.com/2024/08/07/books/review/all-that-glitters-orlando-whitfield.html

Saturday, October 19, 2024

Lướt qua kệ sách là niềm vui trong câu chuyện lịch sử về hiệu sách

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Chọn sách ở những kệ sách hư cấu tại Vroman’s, một hiệu sách lâu đời ở Pasadena, California.

“Người ta có cảm nhận về hiệu sách khác với cảm nhận của họ về cửa hàng tạp hóa hoặc cửa hàng điện tử,” Evan Friss viết như vậy khi ca ngợi truyền thống bán lẻ đã bị Internet đè bẹp.

Chúng ta ai cũng biết về những nơi được gọi là “sa mạc lương thực”: những khu vực không thể tiếp cận được sản phẩm tươi sống, chỉ có một vài tiệm fastfood Taco Bell. Những “hoang mạc sách” thì ít khiến người ta quan ngại hơn.

Bây giờ có thể đi thăm nhiều địa điểm trong quốc gia dân chủ vĩ đại của chúng ta mà bất kỳ nơi đâu cũng không đến gần một hiệu sách nào. (Các thư viện công cộng vẫn đang kiên trì bám trụ ở đó – trong thời điểm hiện tại – mặc dù lớp người trẻ hơn không cưỡng lại được trải nghiệm thư viện bằng điện thoại thông minh.)

Lẽ dĩ nhiên, cùng với các đơn đặt hàng số lượng lớn cà phê Folgers và giấy vệ sinh Cottonelle, người ta có thể đặt thêm nhiều đầu sách thú vị để được giao hàng với giá rẻ – thậm chí chỉ ngày một ngày hai là nhận được! – từ cái thực thể trực tuyến đáng kinh ngạc này được đặt tên theo một con sông ở Nam Mỹ. Có lẽ bạn đã nghe đến tên nó. …

Hoàn toàn không thỏa đáng, Evan Friss – nhà sử học đồng thời là chồng của một cựu nhân viên bán hàng tại hiệu sách Three Lives ở Manhattan – khẳng định như vậy trong cuốn “The Bookshop” (“Hiệu sách”), một sự bảo vệ hăng hái cho danh mục bán lẻ quan trọng, khác biệt và bất chấp mọi thách thức này của Mỹ. (Trước cuốn này anh viết về xe đạp, một lợi ích cộng đồng khác cần được hỗ trợ nhiều hơn.)

Một cuốn sách viết về hiệu sách có nguy cơ trở thành một trò chơi chữ, giống như cuốn sách ảnh để trưng bày trên bàn cà phê của Kramer có nội dung về những chiếc bàn cà phê. Nó có vẻ như sự sắp đặt được đảm bảo từ trước với những chiếc túi vải có quai, những chiếc cốc sứ và các mặt hàng không thiết yếu khác mà các cửa hàng trữ sẵn để tăng tỷ suất lợi nhuận thường là ảm đạm của họ.

Thế nhưng đã có rất nhiều cuốn hồi ký hấp dẫn được viết bởi những người bán sách, gần đây nhất là hồi ký của Paul Yamazaki trưởng phòng mãi vụ hiệu sách huyền thoại City Lights ở San Francisco, và một cuốn khác của nhà bán sách cổ Marius Kociejowski. Người ta cũng không nên bỏ qua tác phẩm kinh điển ở dạng thư từ là cuốn 84, Charing Cross Road (“Số 84 Đường Charing Cross”) của Helene Hanff.

Không chỉ đơn giản vì những người dành nhiều thời gian bên văn chương chắc chắn sẽ hấp thụ được phần nào khả năng viết bằng sự thẩm thấu, mà còn vì nơi làm việc của họ – như nhà văn Christopher Morley vĩ đại đã được chuỗi cửa hàng bách hóa Marshall Field ở Chicago trả 300 USD để viết – là “những chốn nhiệm màu”, nơi cuộc sống có thể được thay đổi thông qua những cuộc gặp gỡ tình cờ của cả trang sách lẫn con người mà không cần thuật toán. (Marshall Field có gian hàng sách khổng lồ của riêng nó – “cái siêu thị sách đầu tiên,” như Friss viết – được điều hành trong thời gian rất dài bởi bà Marcella Burns Hahner nhỏ nhắn nhưng đáng gờm, nổi tiếng với biệt danh “Czarina” [“Hoàng hậu”] và là một nhân vật quan trọng trong ngành xuất bản Mỹ.)

Như Friss thừa nhận, hiệu sách là “nơi để đánh mất và tìm lại chính mình” và do đó thường là bối cảnh cho những bộ phim hài lãng mạn “sến súa và sáo mòn”. Fred Astaire đang âu yếm Audrey Hepburn trong phim “Funny Face” (“Khuôn mặt khôi hài”) khi họ cùng được xếp ngăn nắp trên kệ ở West Village. Hugh Grant, trong vai chủ hiệu sách có tên William Thacker, đang giúp Julia Roberts lướt qua những cuốn sách trong phim “Notting Hill”. Nữ nhân vật Sally của nhà văn kiêm nhà sản xuất phim Nora Ephron tình cờ gặp Harry tại một hiệu sách của Shakespeare & Co. ở Upper West Side (“ai đó đang nhìn chằm chằm vào cậu từ kệ sách Phát triển Cá nhân kìa!”). Và nổi tiếng nhất là bộ phim “You’ve Got Mail” (“Bạn có thư mới”) của Ephron, nó đã biến một chuỗi hiệu sách khổng lồ kiểu Barnes & Noble thành quỷ dữ. Ai đó nên bật đèn xanh cho tập tiếp theo về cảnh khách hàng bắt đầu cầu xin cứu lấy những hiệu sách Barnes & Noble tại địa phương của họ sau khi Jeff Bezos an cư lạc nghiệp với triều đại trường tồn của loại hộp carton cán sóng.

Chắc hẳn do chủ ý, cuốn sách của Friss được cấu trúc giống như cửa hiệu xịn nhất trong số những cửa hiệu văn chương như vậy: hơi lộn xộn một chút, với những chuyển hướng bất ngờ chỗ này chỗ kia. Anh xem xét một cách tán thành tường nhà của Books Are Magic trên Instagram, cửa hàng của tiểu thuyết gia Emma Straub ở khu phố Cobble Hill của Brooklyn, và ít tán thành hơn là mùi hương của sách [bibliosmia] được đóng chai bởi chuỗi hiệu sách Powell's, dấu ấn của Portland, Oregon.

Có những đoạn ngắn về những thứ hấp dẫn như WonTon, chú mèo tuxedo đã ngự trị trong một cửa hàng tại Richmond, Virginia, từng là nhân vật trong tiểu thuyết “Lake Success” của Gary Shteyngart. Những con mèo trong các hiệu sách, trong những ngày làn sóng chính trị đột ngột dâng cao này, có thể là cả một cuốn sách khác; “The Bookshop” nhất thiết phải là cuốn sách chọn lọc cẩn thận, và tôi đã tìm kiếm mà không thấy những con mèo như Bartleby, Mr. Eliot và Skimbleshanks – những nhân viên lười biếng của hiệu sách E. Shaver ở Savannah, Georgia.

Sự thất vọng khi không tìm được những thứ bạn yêu thích trong danh mục phong phú của anh, như Friss viết, nói lên tầm quan trọng của các cơ sở này: “Việc rất nhiều người có cảm nhận về hiệu sách khác với cảm nhận của họ về cửa hàng tạp hóa, cửa hàng điện tử hoặc bất kỳ cửa hàng nào khác là một phần của vấn đề đó”.

Một trong nhiều chức năng của hiệu sách mà Amazon không thể thực hiện được, kể từ khi các cửa hàng hữu hình của nó đóng cửa, là tổ chức một buổi họp mặt chính thức. Friss kể câu chuyện đằng sau bức ảnh nổi tiếng của một nhóm gồm hầu hết các nhà thơ trong một bữa tiệc ở hiệu sách Gotham Book Mart được nhiều người nhớ đến, với Gore Vidal chen vào và William Carlos Williams không được vào ảnh. (W.H. Auden, leo lên vị trí cao nhất, “là một trong vài người có vẻ vui thích”.) Và anh đã làm sống lại Burt Britton, một người Brooklyn có bộ râu kỳ cục và là một người không chắc đã quen giao tế, ông này từng làm việc ở tầng hầm của hiệu sách Strand và đã có bữa tiệc vui cuồng nhiệt nhớ đời của riêng mình sau khi ông đã thuyết phục được rất nhiều tác giả vẽ chân dung tự họa và biên soạn chúng thành sách.

Những người quảng bá cho chữ nghĩa bản thân họ không chỉ là những “nhân vật” đáng kinh ngạc mà đôi khi còn là những nhà cách mạng, bắt đầu từ Benjamin Franklin. Friss ghi lại cách các hiệu sách hiện đã đóng cửa như Drum & Spear ở Washington, D.C., đã hướng tới độc giả da đen và giới L.G.B.T.Q ra sao. Hiệu sách Oscar Wilde trên Phố Mercer từng là nơi tụ tập của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị tước quyền công dân. Anh cũng tái hiện lại những hang ổ của lòng thù hận như Hiệu sách Aryan ở Los Angeles. Giờ đây, những tư tưởng dù tốt hay xấu đều được giao đến cho khách hàng trong cùng một lớp giấy gói trơn một màu nâu.

Dẫu vậy, không thể đổ lỗi cho Amazon về sự sa sút chung trong nền văn chương Mỹ, cũng như về sự phát cuồng công nghệ ngày càng tăng. Friss chỉ ra rằng, nếu ngành kinh doanh sách là thứ đã tàn được phục hồi một cách kém ngoạn mục hơn một chút so với rạp hát, thì chí ít về tổng thể nó vẫn cơ động và nhanh nhẹn hơn, và đó là lý do để lạc quan. Từ Caravan Bookshop (Hiệu sách Lưu động) của Bertha Mahony năm 1920 – “chiếc xe tải có động cơ với hai tấm bạt căng rộng xòe ra như đôi cánh” – đến quầy sách ngoài đường VorteXity của Jen Fisher trên Đại lộ A, cuốn “The Bookshop” cân nhắc xem để thỏa mãn cơn đói kiến ​​thức cơ bản của con người đòi hỏi chi phí ít đến mức nào.

THE BOOKSHOP: A History of the American Bookstore | By Evan Friss | Viking | 416 pp. | $30

Alexandra Jacobs is a Times book critic and occasional features writer. She joined The Times in 2010.

Browsing Is a Pleasure in This History of the Bookstore https://www.nytimes.com/2024/08/04/books/review/the-bookshop-evan-friss.html

Friday, October 4, 2024

Ngay cả Michael Lewis cũng chẳng thể biến Sam Bankman-Fried thành người hùng được

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn sách mới của Lewis “Going Infinite” (“Đồng tiền vô tận”) về vị tỷ phú tiền mã hõa ô danh, không tuân theo công thức luôn thu phục lòng người của tác giả là những câu chuyện hào hứng và thiên tài không ai biết đến.


Đọc “Going Infinite”, cuốn sách mới có vẻ khác lạ của Michael Lewis về doanh nhân tiền mã hóa ô danh Sam Bankman-Fried, bạn sẽ mau chóng nhận ra Lewis cảm thấy bối rối khác thường bởi tư liệu. Một trong những niềm vui đích xác mà một cuốn sách của Michael Lewis đem đến cho chúng ta là kỹ năng kể chuyện rất ấn tượng, sự nhấn nhả hài hước đúng lúc cùng sự tự tin lôi cuốn của ông. Ông chắc chắn sẽ mang đến cho bạn một người hùng không ai biết đến để ca ngợi: một công chức tận tụy, một vị tổng quản lý đội bóng chày nổi loạn, một nhà đầu tư đi ngược xu thế không để bị lừa bịp bởi sự thổi phồng. Thậm chí cả cuốn sách đầu tay của Lewis là “Liar's Poker” (“Bài bạc bịp”) kể về các kiểu chiêu trò tệ hại ở Phố Wall, cũng có bố cục xoay quanh chàng trai trẻ Michael Lewis, người giã từ “trò cờ bạc phi lý” của làng tài chính để đến với ánh hào quang của làng báo chí và địa vị tác giả có sách bán chạy nhất.

Bankman-Fried được trông đợi là một người hùng khác trong mạch viết này – hoặc chí ít cũng là điều Lewis ám chỉ tại những trang đầu của cuốn sách “Going Infinite”, khi ông kể lại việc một người bạn sắp chốt được thỏa thuận với Bankman-Fried nhờ Lewis điều nghiên anh ta. Sau cuộc gặp đầu tiên với Bankman-Fried cuối năm 2021, Lewis nói rằng ông “bị thuyết phục hoàn toàn”. Ông gọi điện cho bạn: “Làm tới đi! Cứ trao đổi cổ phần với Sam Bankman-Fried đi! Hãy làm bất kỳ điều gì cậu ấy muốn! Đâu có gì sai sót được?"

Những dấu chấm than tràn ngập trong câu trần thuật trên là dấu hiệu cho thấy Lewis ít nhất cũng có phần nhận thức được sự lạc quan đó có vẻ ngớ ngẩn đến mức nào khi hồi tưởng lại – đặc biệt là lúc này khi việc lựa chọn bồi thẩm đoàn cho phiên tòa xét xử Bankman-Fried về các cáo buộc gian lận dự kiến bắt đầu thứ Ba vừa rồi, cũng là ngày xuất bản cuốn sách. Song “Going Infinite” vẫn ẩn chứa dấu vết bóng ma của khuôn mẫu anh hùng không ai biết đến trước đây, một khuôn mẫu lẽ phải bị đập bể từ tháng 11 năm ngoái, khi đế chế tiền mã hóa của Bankman-Fried bất ngờ sụp đổ tan tành. Lewis, người đi lại như con thoi từ Bahamas nơi Bankman-Fried thường trực, ở vào địa vị gần gũi với anh ta trong những tháng trước khi xảy ra thảm họa – từ địa vị đó dường như ông chẳng thể nhìn thấy được gì. “Đến tận những ngày cuối tháng 10 năm 2022,” ông viết, “có lẽ ta đã sục sạo khắp những túp lều trong rừng cho đến khi mệt đứt hơi mà không hề có chút linh cảm nào rằng có điều gì đó không ổn.”

Wednesday, October 2, 2024

Câu chuyện lịch sử về ẩm thực Trung Hoa, và bữa tiệc mỹ mãn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “Invitation to a Banquet” (“Thiệp mời dự tiệc”) của Fuchsia Dunlop là công trình nghiên cứu văn hóa về nền ẩm thực cực kỳ rộng lớn và thường bị hiểu sai.

“Một cuốn sách dạy nấu ăn thực sự hay,” Jan Morris viết, “thì về mặt tri thức nó còn mạo hiểm hơn cả cuốn cẩm nang tình dục Kama Sutra.” Cuốn sách mới vào loại bậc thầy của Fuchsia Dunlop “Invitation to a Banquet: The Story of Chinese Food” (“Thiệp mời dự tiệc: Câu chuyện về ẩm thực Trung Hoa”) thực chất không phải là một cuốn sách dạy nấu ăn. Nhưng nó có sự liên quan trực tiếp đến dục tính gợi cho ta nhớ đến nhận xét trên của Morris.

Khó mà viết về ẩm thực dài hơn một hoặc hai trang sách mà không thêm nếm những so sánh và ám chỉ đến một dạng hành vi tính dục khác. Ẩm thực và tình dục: phương pháp và sự đa dạng của chúng vay mượn từ cùng một nguồn ngôn ngữ. Những gì ta ăn cũng bộc lộ bản thân ta y như những gì ta làm trên giường, và khi ta già đi thì ăn uống là sự bù đắp cho tình dục.

Những mô tả của Dunlop nghiên cứu mối liên kết này. Những chiếc lá xanh thẫm trên cây cải làn “mượt mà và rũ xuống như mái tóc nàng tiên cá”. Các đầu bếp ở Thiểm Tây rất lành nghề trong việc “thọc ngón cái, đùn ra, bấu véo, nhỏ giọt, giằng giật, căng ra, xoa bóp” sợi mì của họ. Những thực đơn nhằm vào khách hàng phương Tây, với những món ăn rõ rành rành, giống như “các cô gái hộp đêm đang xếp hàng khoe chân”. Mô tả kết cấu thành phần trong những cuốn sách dạy nấu ăn của Trung Quốc gợi cho Dunlop nhớ đến những cảnh trong “Fanny Hill”, cuốn tiểu thuyết khiêu dâm kinh điển. Một món hầm bữa sáng đơn giản “mơi khách bằng ớt và dưa chua”. Nếu tôi được một xu cho mỗi lần Dunlop dùng từ “mê mẩn” hoặc “si mê”, tôi hoàn toàn có thể trả tiền cho 40 phút đỗ xe ở bãi đỗ của một thị trấn nhỏ.

Sự hùng hồn này bổ sung thêm nhân tố con người cho cái vốn là một tác phẩm lịch sử ẩm thực nghiêm túc và mạo hiểm. Là một cuộc điều nghiên về văn hóa, tri thức và chính trị, “Invitation to a Banquet” được xếp ngang hàng với cuốn “The Food of France” (“Ẩm thực Pháp” – ra mắt năm 1958) của Waverley Root và cuốn “High on the Hog” (“Sơn hào hải vị” – ra mắt năm 2011) của Jessica B. Harris. Nó là cuốn từ điển chuyên đề về các giác quan. Cuốn sách nâng Dunlop, nhà văn và đầu bếp người Anh tốt nghiệp Đại học Cambridge, lên tầm cao mới với tư cách là nhà bình luận ẩm thực. Văn phong của chị cũng phong phú và sinh động như văn phong của M.F.K. Fisher và Betty Fussell. May thay, chị thiếu sự tự tin của Fisher, và có sự sôi nổi của Fussell.

Nếu bạn quan tâm đến ẩm thực, hẳn bạn từng nghe danh Dunlop. Chị là sinh viên kỳ cựu, và là người làm sáng tỏ ý nghĩa của nền ẩm thực Trung Quốc cho độc giả phương Tây. Chị là người phương Tây đầu tiên được đào tạo tại Học viện Ẩm thực Tứ Xuyên. Chị giành được bốn giải thưởng James Beard. (Như tất cả mọi cư dân New York sành sỏi, Beard biết rằng lang thang ở khu phố Tàu để ăn trưa là phần hay ho nhất trong lúc làm nhiệm vụ giám khảo.) Chị viết nhiều cuốn sách, trong đó có “The Food of Sichuan” (“Ẩm thực Tứ Xuyên”), “Every Grain of Rice” (“Từng hạt gạo”) và cuốn hồi ký “Shark’s Fin and Sichuan Pepper.” (“Vi cá mập và ớt Tứ Xuyên”). Cuốn sách mới này là tác phẩm để đời của chị.

Dunlop tiếp cận ẩm thực Trung Hoa với sự hiếu kỳ, lòng tôn trọng và nhiệt huyết hòa quyện với nhau. Lorrie Moore viết: “Bản lĩnh là một phẩm chất đẹp đẽ ở một con người”, và Dunlop có rất nhiều phẩm chất đó. Quan trọng là chị không bị hoang mang lo sợ bởi chủ đề của mình. Chị gọi ra những thủ đoạn mà chị lên án, chẳng hạn như việc Trung Quốc rất thèm muốn các hoạt động buôn bán trái phép động vật hoang dã. Thế nhưng, chị viết:

Nhiều năm khéo léo cân bằng giữa “phương Tây” và Trung Quốc biến tôi thành một nhà ngoại giao dày dạn, người theo chủ nghĩa tương đối về văn hóa, người luôn giữ thái độ trung lập và hết lòng kìm nén những lời phán xét. Đó là cái mà sự hòa nhập vào nền văn hóa khác gây ra cho ta. Đó có lẽ là lý do vì sao những người như tôi làm thế: phá vỡ những quan điểm không gì lay chuyển nổi của chúng ta và nhìn mọi thứ qua con mắt hình lăng kính của một con côn trùng, từ nhiều góc độ.

Dunlop chia cuốn sách của mình thành bốn phần: Lò sưởi, Trang trại, Nhà bếp và Bàn ăn. Các phần này lại được chia nhỏ thành 28 chương, hầu hết các chương đều phân tích một công thức hoặc một phương pháp: Gà Trùng Khánh xào ớt khô, Mì xắt bằng dao, Đậu phụ Tứ Xuyên, Cùi bưởi nấu với trứng tôm, Thịt kho tàu, Cá vược thái lát và Canh Thủy khiên, Tiểu long bao hấp, v.v… Đa phần các chương đều bắt đầu bằng một bữa ăn, hay một chuyến thăm trang trại hoặc nhà máy sản xuất rượu vang, hoặc thăm một đầu bếp đáng kính. Rồi từ đó chị mở rộng ra lịch sử của những gì nằm trên đĩa ăn của chị.

Muốn hiểu khủng hoảng khí hậu thực chất là gì, hãy hỏi loài vật

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“The End of Eden” (“Thiên đường sắp mất”) là khúc bi ca đầy xúc cảm và rùng rợn của Adam Welz cho sự đa dạng sinh học như chúng ta từng biết.

Bạn sẽ không thấy cái kết có hậu từ cuốn sách này.

Loài này nối tiếp loài khác. Quần xã này nối tiếp quần xã khác. Lục địa này nối tiếp lục địa khác. Cái thế giới mà nhà báo Nam Phi chuyên viết về môi trường là Adam Welz mô tả đang ở giai đoạn cuối của sự sụp đổ. Giọng điệu của cuốn sách – ít nhất là cho đến chương cuối mang tính tự bạch – rất đắn đo cân nhắc và chính xác, khí độ điềm tĩnh, không thể hiện sự phẫn nộ mà thay vào đó là sự cẩn trọng chú ý đến tính chính xác trong mô tả và phân tích. Welz ngắm nhìn những lò xo và bánh xe của cơ-thể-trái-đất quay tách khỏi nhau thành rời rạc vô dụng. Và hiệu ứng tích tụ lại rất tàn khốc.

Những cá thể con người hầu hết không có mặt trong câu chuyện này. Chẳng có những nhà khoa học anh hùng hay những chủ giếng dầu tệ hại. Thế vào chỗ của họ, những sinh vật khác chiếm vị trí trung tâm, và động lực chi phối là thế này: Cái thế giới sống này đã tiến hóa theo nhiều cách phức tạp để thích nghi và hưởng lợi từ các điều kiện hiện hành của hành tinh. Những điều kiện đó vẫn luôn thay đổi linh hoạt, song việc đốt nhiên liệu hóa thạch của chúng ta trong hai thế kỷ qua đột nhiên đẩy tất cả hệ thống rơi vào hỗn loạn. Suốt chiều dài lịch sử nhiều tỷ năm, Trái đất chưa bao giờ đổi khác nhiều hơn là vào cuối kỷ băng hà sau cùng –trùng vào lúc chúng ta bắt đầu đời sống hoang dã của mình khoảng 11.700 năm trước – và chúng ta hiện đang sống trong tình trạng hỗn loạn mà chúng ta tạo ra. Chúng ta đã uổng phí sự hoàn hảo mà quá trình tiến hóa truyền lại cho chúng ta.

Tầm phủ sóng xa rộng của Madona

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn tiểu sử do Mary Gabriel viết thấu đáo thế nào thì chủ thể của nó cũng quy củ y như vậy. Nhưng trong việc không ngừng bảo vệ siêu sao đó, tinh thần tự giải phóng khỏi mọi chuẩn mực của Madona ở đâu?

“Tôi muốn ở một mình” là câu nói nổi tiếng của nhân vật vũ nữ do Greta Garbo thủ vai trong bộ phim “Grand Hotel”, câu trích dẫn thường xuyên và nói đúng ra thì chỉ phần nào gắn liền với nữ diễn viên này sau khi cô rút lui khỏi cuộc sống người của công chúng. Garbo đứng đầu danh sách các minh tinh Thời Hoàng kim của Hollywood trong bài hát “Vogue”, một trong những bài hát thành công nhất của Madonna, nhưng đã lâu nay ngôi sao nhạc pop này dường như là hiện thân ngược lại hoàn toàn của câu châm ngôn trên. Nàng muốn được mọi người vây quanh, cứ như thể với âm thanh vòm nổi Dolby.

Giám đốc phòng thu Seymour Stein nhận xét: “Thậm chí trước khi Madonna có người quản lý, cô ấy đã có cả một đoàn giúp việc và ca sĩ hát phụ tháp tùng cô đi khắp nơi”.

Mặc dù là ca sĩ solo đúng nghĩa, nhưng Madonna được các vũ công trợ giúp từ khi bắt đầu sự nghiệp hồi đầu thập kỷ 1980. Nàng có sáu người con: hai con đẻ, bốn con nuôi gốc Malawi. Nhiều người khác tự coi mình là đứa con tinh thần của nàng: những người đồng tính nam mà nàng là bà mẹ bảo trợ của họ; những nữ nghệ sĩ trẻ hơn mà nàng đã truyền cảm hứng cho họ.

Và nàng đã đi vòng quanh thế giới với đoàn tùy tùng linh hoạt gồm bạn bè, nhà văn, nhà sản xuất, đạo diễn, nhà quản lý, nhiếp ảnh gia, chuyên gia quảng cáo, phóng viên và người hâm mộ, tất cả đều tề tựu đông đủ một cách hữu ích trong cuốn tiểu sử mới đồ sộ và đầy khiêu khích do Mary Gabriel viết về nàng: bức tường thành kiên cố được xây từng viên gạch một ngăn cản bất kỳ kẻ phỉ báng nào đang loi ngoi trong con hào bao quanh lâu đài của nàng.

“Madonna: A Rebel Life” (“Madona: Một đời nổi loạn”) là một trong những cuốn sách bạn phải tính độ dài bằng cân chứ không phải trang: nặng gần 1,5 cân, trọng lượng này sẽ nặng hơn nếu nhà xuất bản không quyết định đăng chú thích và thư mục trực tuyến thay vì in kèm. Nó sẽ không đặt vừa chiếc kệ nhỏ trên máy tập StairMaster ở phòng tập gym – máy tập thể dục cổ điển của Madonna – tuy nhiên rốt cuộc bạn có thể nâng nó lên để tập tạ tay.

Thay vì tập tạ tay, nếu bạn ngẫu nhiên bước vào một lớp thể dục nhịp điệu, không những có khả năng cao là giáo viên hướng dẫn sẽ phát một bài hát trong danh mục của Madonna mà có thể cô giáo đó còn đeo một chiếc mic có tai nghe – và đó cũng là đúng kiểu Madonna. Như Gabriel lưu ý, dù công nghệ này được các phi công và Kate Bush sử dụng trước đó, nhưng chính nhân vật của chị đã biến nó thành công nghệ đại chúng trong chuyến lưu diễn “Blond Ambition” năm 1989.

Tuy nhiên, người phụ nữ ra đời năm 1958 với tên khai sinh là Madonna Louise Ciccone, cùng năm với Prince và Michael Jackson, lại chẳng phát ngôn gì dành cho cuốn sách này. Tiếng nói của nàng được dẫn truyền từ nhiều cuộc phỏng vấn trước đó, từ những buổi biểu diễn được thu âm và bài đăng không thường xuyên trên Instagram, nơi mà ngay từ những ngày đầu đại dịch nàng cực lực phản đối video “Imagine” của Gal Gadot bằng video quay cảnh nàng khỏa thân trong bồn tắm giữa những cánh hoa hồng bồng bềnh, tuyên bố rằng Covid-19 là “sự cân bằng tuyệt vời.”

Lần Gabriel tiếp cận gần nhất với Madonna bằng xương bằng thịt là nửa tá cuộc trò chuyện với anh trai nàng, Christopher Ciccone, tác giả cuốn hồi ký “Life With My Sister Madonna” (“Sống với em gái Madona của tôi”) bán rất chạy năm 2008; cuốn hồi ký này chí ít đã gây ra sự bất hòa nhất thời giữa hai anh em, những người cộng tác chuyên nghiệp lâu năm. (Cảm giác bị phản bội của Madonna khó có thể đi đôi với sự bảo vệ đầy nhiệt huyết của nàng đối với quyền tự do biểu đạt cá nhân.)

Gabriel cũng nói chuyện với hơn 30 nguồn tin khác, thật ngạc nhiên là rất ít nguồn liên quan đến phạm vi tác phẩm, và đào bới ra vài mẩu thông tin thú vị được lưu trữ, chẳng hạn như Norman Mailer, tại bản thảo đầu tiên trong số hơn 200 bản mà ông viết cho mục tiểu sử của tạp chí Esquire năm 1994, mô tả Madonna là người Mỹ gốc Ý “bé tẹo” (ông dùng một từ có tính miệt thị dân tộc thay vì từ này) “với trái tim được hình thành từ sự táo bạo của hàng trăm tổ tiên nông dân”.

Làm cách nào một khẩu súng được chế tạo để chiến đấu lại tìm đường đến được với hàng triệu gia đình?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “American Gun” (“Khẩu súng Mỹ”) của Cameron McWhirter và Zusha Elinson kể lại chi tiết lịch sử khốc liệt của khẩu súng trường AR-15 mà không hề tô vẽ.

Theo lời kể của Cameron McWhirter và Zusha Elinson trong “American Gun”, câu chuyện về khẩu súng trường AR-15 khét tiếng này là một phiên bản của Frankenstein, với nhà phát minh lỗi lạc tên là Eugene Stoner trong vai Victor Frankenstein, người tạo ra con quái vật đó. Là “người thợ nghiệp dư thích mày mò” không có bằng đại học, Stoner có trí tưởng tượng không ngơi nghỉ và năng khiếu trực quan về kỹ thuật, thôi thúc ông phác thảo thiết kế ở khắp mọi nơi, kể cả trên khăn trải bàn ở nhà hàng. Vào thập kỷ 1920, sống ở Thung lũng Coachella của California khi còn thơ ấu, cậu bé Stoner đi săn cùng cha và bị ám ảnh bởi “đủ loại vật thể có thể bắn ra được”.

Dù cuối cùng Stoner đã thai nghén một loại vũ khí làm thay đổi thế giới, song ông không thể tìm tòi để hiểu được những hậu quả tiềm ẩn của nó. Ông muốn binh lính Mỹ có loại súng hiệu quả nhất có thể có được, loại súng có khả năng giúp họ nhanh chóng tiêu diệt một nhóm Cộng sản. Câu chuyện về thành tựu vĩ đại của ông và hậu quả hủy diệt của nó tạo thành tâm điểm cho cuốn sách của McWhirter và Elinson, một tác phẩm bậc thầy về tường thuật lịch sử và phóng sự nguyên bản.

Cho đến thời Chiến tranh Triều Tiên, lính Mỹ vẫn sử dụng khẩu M1 nặng nề khủng khiếp, loại vũ khí chính xác cần có băng đạn tám viên và bắn ra những viên đạn to. Năm 1950, sau một trận đánh hồi đầu cuộc chiến, khi lính Mỹ bị áp đảo bởi lực lượng đông hơn của Bắc Triều Tiên, hiển nhiên khẩu súng trường này không còn hữu dụng nữa.

Stoner, người từng là lính thủy đánh bộ trong Thế chiến II, đầu quân cho một tập đoàn sản xuất van máy bay, nơi một kỹ sư thiết kế chăm nom dạy dỗ anh, cho anh học việc. Tình trạng không được đào tạo chính quy biến anh thành người sáng tạo hơn và bớt thủ cựu hơn những đồng nghiệp được đào tạo. Khi có thời gian rảnh rỗi, anh lao vào sứ mệnh trong gara của mình là cải tiến khẩu M1 thô vụng. Năm 1954, cuộc gặp gỡ tình cờ với một doanh nhân lắm mưu nhiều kế dẫn đến việc thành lập Armalite, hãng sản xuất súng đạn này dưới sự chỉ đạo của Stoner sẽ chế tạo khẩu AR-15 và cố gắng thuyết phục quân đội sử dụng nó.

Loại vũ khí bắn rất nhanh này được cấu thành từ nhôm, sợi thủy tinh và nhựa, nặng khoảng 2,5 kg khi chưa nạp đạn. Nó có một hệ thống nạp đạn kiểu mới hoạt động bằng khí nén của chính khẩu súng và một báng súng độc đáo giữ cho khẩu súng nhằm đúng mục tiêu. Nó có thể chuyển đổi giữa cài đặt bán tự động và hoàn toàn tự động. Đạn của nó nhỏ và bắn ra với tốc độ cao. Khi một viên bắn trúng cơ thể con người, theo lời các tác giả, “nó sẽ chậm tốc độ lại và giải phóng năng lượng”. Không giống như viên đạn cỡ nòng lớn của khẩu M1 có xu hướng xuyên thẳng qua người, viên đạn của khẩu AR-15 trở nên dễ thay đổi về lý tính khi găm vào và “xé nát cơ thể như một cơn lốc xoáy, xoắn ốc và xoay nghiêng khi nó phá hủy các cơ quan, mạch máu và xương cốt”.

Bất chấp sự tàn khốc hiển nhiên của loại vũ khí này, Armalite không kiếm được hợp đồng quân sự lớn nào. Năm 1959, hãng sản xuất súng Colt mua lại quyền sản xuất và cấp giấy phép con cho khẩu AR-15 của Stoner và hệ thống nạp đạn bằng khí nén của anh. Colt may mắn hơn với phiên bản khẩu súng trường của mình, phiên bản mà các lực lượng vũ trang gọi là M16. Nó được trang bị băng đạn 20 viên, và hồi năm 1966 quân đội đặt mua hơn 400.000 khẩu súng loại này cho binh lính.

Với cách diễn đạt điềm tĩnh, chính xác cho phép nghiên cứu toàn diện của các tác giả tỏa sáng, cuốn “American Gun” làm sáng rõ rằng chức năng quan trọng nhất của khẩu AR-15 là tiêu diệt kẻ thù với khả năng nhanh nhất. Khẩu súng này không dùng cho mục đích dân sự. Điều đó không ngăn cản hãng Colt tiếp thị tới những người săn bắn một phiên bản bán-tự-động – khẩu "Sporter" – có ổ đạn năm viên. Khẩu súng này không được ưa chuộng và hãng chỉ sản xuất vài nghìn chiếc mỗi năm. Nhưng năm 1977, khi bằng sáng chế của Stoner hết hạn, quan điểm đó đã thay đổi.

Một người xa lạ giàu có muốn cho bạn toàn bộ số tiền của anh ta. Cạm bẫy đấy.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Trong cuốn Anansi's Gold (“Vàng của Anansi”), Yepoka Yeebo đào sâu đến tận gốc rễ một vụ lừa đảo lừng danh – và người đàn ông đã trốn thoát được sự trừng phạt hàng thập kỷ.

Hãy bảo tôi đừng kể nữa nếu bạn đã nghe chuyện này: Một người xa lạ cần thu hồi khoản tiền bị mắc kẹt trong một ngân hàng. Nhưng để tiếp cận được số tiền khổng lồ này, anh ta cần tiền tàu xe đi lại. Và để đáp ứng khoản chi phí này cũng như các phí tổn hành chính cần thiết khác nhằm mở khóa gia tài này, bạn có vui lòng giúp anh ta một khoản đầu tư nhỏ được không? Bạn sẽ được đền đáp xứng đáng cho sự hào phóng của mình.

Trò này được gọi là lừa đảo tạm ứng chi phí, hoặc “419”.

Ngày nay, các vụ lừa đảo kiểu này thường nhằm vào người già và người không-hiểu-biết-gì-về-mạng. Nhưng hồi xưa có một người đàn ông tên là John Ackah Blay-Miezah đã lừa được một cơ số đáng kể những người lõi đời vào một vụ điên rồ như vậy, họ hết lòng trông đợi khi vụ đầu tư kết thúc, khoản tiền đầu tư ban đầu sẽ được nhân 10 lần.

Nạn nhân gồm cả các nguyên thủ quốc gia, chính trị gia và doanh nhân. “Những người tin rằng Blay-Miezah là kẻ lừa đảo”, vị đại sứ Mỹ tại Ghana viết cho Henry Kissinger, “đang lo rằng hắn ta rất có thể có tiền và thế thì họ có vẻ sẽ là những kẻ cực kỳ ngu ngốc”.

Câu chuyện “Anansi’s Gold” hấp dẫn của Yepoka Yeebo phác thảo những nét chính về cuộc đời của Blay-Miezah, làm sáng tỏ cách hắn ta thực hiện những hành vi lừa đảo nhiều năm trời trong lúc sống xa hoa một cách đáng kinh ngạc ra sao. Là nhà báo tự do, tác giả đào sâu những kho lưu trữ tài liệu khắp Đại Tây Dương, bới tung những vụ án hình sự và thực hiện những cuộc phỏng vấn với các nạn nhân cũng như các cộng sự của hắn, bằng vào đó chị kể cho chúng ta không chỉ về Blay-Miezah mà còn về cái thế giới đã tạo điều kiện cho hắn phát đạt. Yeebo viết: “Họ nhìn thấy Blay-Miezah, trong trang phục một ông chủ sang trọng, đang thêu dệt một câu chuyện về châu Phi đen tối nhất, khối tài sản nhiều vô kể và một nhà lãnh đạo tham nhũng. Và bởi vì câu chuyện đó – và người đàn ông đó – vừa khớp với những ý niệm có sẵn trong đầu họ như khớp mộng, nên họ đã bịa nốt phần còn lại của câu chuyện cho chính mình.”

Tuy có một số phiên bản về cách dàn dựng vụ lừa đảo đầu tiên, nhưng đây là phiên bản phổ biến nhất: Năm 1972, trong phút lâm chung – chuyện là thế đấy – vị tổng thống đầu tiên của Ghana là Kwame Nkrumah tiết lộ ông ta đã giấu hàng chục ngàn thỏi vàng và lượng tiền mặt lên đến nhiều triệu đồng trong những hầm chứa tại ngân hàng ở Thụy Sĩ. Kho báu này được ủy thác mà chỉ riêng người bạn tâm giao của ông ta là Blay-Miezah mới có thể tiếp cận được. Một khi các điều kiện ủy thác được đáp ứng, khoản tiền đó sẽ được lấy ra, phần lớn dành để phát triển quốc gia Ghana. Phần còn lại sẽ thuộc về Blay-Miezah trung thành – và các nhà đầu tư của hắn.

Yeebo giải thích: “Ngay sau khi giành độc lập, trên thực tế đã có âm mưu mang kho vàng dự trữ của Ghana ra khỏi đất nước này”. Chị kể chi tiết về cách quản lý quỹ sai lầm vô phương cứu chữa của chính quyền thuộc địa Anh. Cảnh khốn cùng khiến người ta nảy ra câu hỏi tất cả tiền bạc đã đi đâu – cũng chừa lại vừa đủ lý do để nghi ngờ rằng câu chuyện của Blay-Miezah có thể là sự thật.

Minh tinh màn bạc người Mỹ gốc Hoa đầu tiên và cái giá của danh vọng chói ngời

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


“Daughter of the Dragon” (“Long nữ”), cuốn tiểu sử mới về Anna May Wong nữ diễn viên chính trong bộ phim cùng tên, được dự định như một hình thức phục hồi và lật lại.

Theo nhà sử học điện ảnh Kevin Brownlow, đây là “một trong những bộ phim phân biệt chủng tộc nhất từng được sản xuất ở Mỹ”. Bộ phim “Old San Francisco” (“San Fransisco thời xưa”, trình chiếu năm 1927) có một nam diễn viên da trắng đóng vai một nhân vật phản diện Trung Hoa đội lốt một người đàn ông da trắng (bạn hiểu chứ?) định bán một cô gái da trắng vô tội làm gái mại dâm da trắng trước khi hắn bị đè bẹp bởi một trận động đất rất đúng lúc. Trước khi cái kết khủng khiếp của hắn xảy ra, kế hoạch hiểm độc của hắn được một nhân vật châu Á mà ta chỉ biết mỗi biệt danh là “đóa hoa phương Đông” trợ giúp, nhân vật này do diễn viên chuyên đóng vai cô gái ngây thơ có tên là Anna May Wong thủ vai.

Như Yunte Huang nhận định trong cuốn “Daughter of the Dragon” – câu chuyện ông kể về cuộc đời của Wong và thời đại mà cô sống – Hollywood bị phong cách ngoại lai của khu phố Tàu ám ảnh, tuy vậy vai diễn dành cho diễn viên châu Á lại cực kỳ ít ỏi; vì vậy khi Wong, một cô gái sinh ra ở tiệm giặt là của cha mình tại Los Angeles năm 1905, được phân nhiều vai như thế là điều lại càng đặc biệt hơn. Sự nghiệp của cô trải dài từ phim câm, phim nói và cuối cùng là truyền hình. Cô biểu diễn tại các chương trình tạp kỹ và sân khấu trình diễn. Cô sống ở châu Âu một thời gian ngắn hồi cuối những năm 1920, nơi cô gặp triết gia và nhà phê bình văn hóa Walter Benjamin (người gọi đùa cô là “một phong cách Trung Hoa xuất xứ Miền Tây”) và được chụp ảnh cùng Leni Riefenstahl và Marlene Dietrich (người sau đó sẽ xuất hiện cùng Wong trong bộ phim “Shanghai Express” (“Chuyến tàu tốc hành đi Thượng Hải”). Wong thậm chí còn biểu diễn tại nhà hát West End ở London, gây ấn tượng với các nhà phê bình bằng vũ điệu của cô trong khi bạn diễn của cô – chàng diễn viên Laurence Olivier trẻ tuổi – bị chỉ trích vì diễn xuất dở tệ.

August Wilson, người khổng lồ kịch nghệ đã quay tơ thành vàng trong các quán ăn

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn tiểu sử lớn đầu tiên về nhà viết kịch này thuật chuyện về cuộc đời và tầm nhìn vô hạn của ông.

Năm 1986, David Mamet xuất bản cuốn sách hay nhất của mình, một chuyên luận mỏng kiểu bán-trinh-thám về kịch nghệ sân khấu và đời sống có tựa đề “Writing in Restaurants” (“Viết lách trong nhà hàng”). Đó là câu chuyện hàng thập kỷ trước khi ông trở thành “Kanye West của giới văn chương Mỹ”, theo cách diễn đạt của hãng truyền thông The Forward hồi năm ngoái. Hỡi ôi, cuốn sách chỉ loáng thoáng đề cập đến các nhà hàng.

Tiêu đề cuốn sách của Mamet trở lại với tôi khi tôi đang đọc cuốn tiểu sử của Patti Hartigan về August Wilson, một nhà viết kịch quan trọng khác của Mỹ. Wilson, qua đời năm 2005, đã bỏ ra nhiều thời gian nấn ná ở các quán ăn đến mức “Writing in Restaurants” là phụ đề hợp lý có thể lựa chọn để thay thế cho “August Wilson: A Life” (“August Wilson: Một cuộc đời”) của Hartigan.

Wilson là người đàn ông to lớn, để râu, thường mặc com-lê vải tuýt-xi và đội mũ cát-két. Ông thường ngồi ở phía trong cùng với tách cà phê và chiếc gạt tàn đầy ắp. (Ông hút năm bao thuốc mỗi ngày và không ngừng hút kể cả khi đang tắm.) Ông viết lên giấy ăn hoặc hóa đơn, bất kỳ thứ gì thuận tay vớ được.

Một trong những vở kịch đầu tay của ông là “Jitney” (“Taxi dù”) được viết trong nhà hàng fast-food Arthur Treacher’s Fish & Chips. Khi danh tiếng của ông ngày càng lên, ông tìm một địa điểm ở mỗi thành phố nơi các vở kịch của ông được trình diễn. Ông gọi chỗ này là “the Spot” (“Nơi chốn”). Ở thành phố New York, ông thích vẻ đẹp hoang tàn của quán cà phê tại Hotel Edison, nơi thường được những vị khách hàng thân thiết gọi là Phòng trà Ba Lan. Ở Boston là quán Ann's Cafeteria. Ở Seattle là Caffe Ladro. Ông mang theo mấy tờ báo, và đôi khi là một người bạn. Suốt bữa sáng, ông nói năng hùng hồn thú vị khiến mọi người vây quanh chăm chú lắng nghe bốn hoặc năm giờ mỗi bận. Đó là phần sân khấu thể nghiệm hằng ngày của ông.

Wilson là người có tài kể chuyện, có óc tò mò nhanh nhạy của một người tự học. Ông sinh ra ở Pittsburgh năm 1945, con của một bà mẹ da đen đơn thân, người đã nuôi nấng ông và các anh chị em ruột của ông chủ yếu bằng tiền phúc lợi. Ông khai thác thành phố đó, đặc biệt là Quận Hill với bề dày lịch sử của người Mỹ gốc Phi, như thể nó là mỏ than; ông đang bòn rút một vỉa than. Ngôi nhà đầu tiên của gia đình ông không có nước nóng và có một nhà vệ sinh ở sân sau. Wilson bỏ trường trung học và tại ngũ một thời gian ngắn. Ông tự học trong các thư viện ở Pittsburgh theo cùng một cách mà Ta-Nehisi Coates kể về việc anh tự học ở Đại học Howard: “ba phiếu mượn sách mỗi lần”.

Ông nghĩ mình có thể là một nhà thơ. Bài thơ đầu tiên của ông rất hoa mỹ và nhờ ơn Dylan Thomas; nó biến ông thành nhân vật bị chế nhạo nhẹ nhàng. Ông phát hiện ra ca sĩ Bessie Smith và dòng nhạc blues, và ông bất chợt rẽ ngang sang kịch nghệ sân khấu. Amiri Baraka là người có ảnh hưởng quan trọng; nhà thơ kiêm nhà soạn kịch và nhà hoạt động này đến Pittsburgh năm 1968, vào thời kỳ đỉnh cao của phong trào Quyền lực cho người Da đen, và đọc một bài diễn văn đầy khích động. Khi đó Wilson 23 tuổi.

Baraka thành lập Nhà hát/Trường Nghệ thuật Kịch mục Da đen ở Harlem năm 1965. Wilson và những người bạn trong giới nghệ thuật của ông quyết định khởi lập nhà hát của riêng họ, gọi là Black Horizons (Những chân trời Đen). Không ai tình nguyện lãnh đạo nó, và Wilson mặc nhiên được chọn. Có bột mới gột nên hồ, và Wilson bắt đầu viết. Lời thoại hoàn toàn có sẵn đó rồi; tiếng nói người Mỹ gốc Phi của cả một thành phố tuôn trào từ ông. Ông có một sức tưởng tượng tự-làm-đầy.

Trên TV những loại nấm sát thủ là một kịch bản phim kinh dị. Trong cuốn sách này chúng có thật.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Cuốn “Blight” (“Lụi tàn”) của tác giả Emily Monosson ghi chép lại những mối đe dọa mà mầm bệnh nấm gây ra cho con người và động thực vật như những tác nhân gây bệnh khốc hại nhất thế giới.

Trong cuốn tiểu thuyết “White Noise” (“Tiếng ồn trắng”) của Don DeLillo có một cảnh, trong đó nhân vật chính nhớ về người vợ cũ, mà theo lời của chính người vợ này thì cô “cực kỳ mẫn cảm với nhiều thứ”. Anh ta kể: “Ánh sáng mặt trời, không khí, thức ăn, nước uống, tình dục”. Cô ấy đánh đồng hết thảy: "Có khả năng gây ung thư, tất cả những thứ đó."

Sự sống có thể là thứ gây chết chóc – Tôi thấy mình rơi dần vào trạng thái kiểu hoang tưởng bủa vây bốn phía này khi đọc cuốn sách mới khiến người ta lo lắng của Emily Monosson, “Blight: Fungi and the Coming Pandemia” (“Lụi tàn: Nấm và Đại dịch sắp tới”). Nấm có ở khắp mọi nơi và hiện đang ở thời kỳ cực thịnh, với những bộ phim tài liệu như “Fantastic Fungi” (“Những loại nấm kỳ diệu”, trình chiếu năm 2019) của Louie Schwartzberg và những cuốn sách như “Entangled Life” (“Sự sống phức rối”, ra mắt năm 2020) của Merlin Sheldrake cho chúng ta biết về tất cả những gì hữu ích mà nấm có thể làm – mở rộng nhận thức của chúng ta, dọn sạch dầu tràn, giúp cây chia sẻ chất dinh dưỡng dưới tầng đất rừng.

Cuốn sách của Monosson luận bàn đến mặt trái của nấm. Giống như “The Last of Us” (“Những người cuối cùng còn lại trong số chúng ta”), trò chơi điện tử đồng thời là bộ phim truyền hình dài tập của HBO dựa trên giả thuyết một đại dịch nấm biến con người thành những xác sống, cuốn “Blight” nhấn mạnh những điều vô cùng tai hại mà nấm có thể làm: “Nhìn chung, các loại nấm truyền nhiễm và các mầm bệnh dạng nấm là những tác nhân gây bệnh khốc hại nhất mà ai cũng biết trên hành tinh này.”

Bà mở đầu cuốn sách của mình với Candida auris, loại nấm phát triển mạnh trong vài năm gần đây, len lỏi khắp các bệnh viện và lây nhiễm cho những bệnh nhân có hệ thống miễn dịch đã bị suy yếu bởi các bệnh khác. Các bệnh nhiễm nấm ngoài da thường không nguy hiểm đến tính mạng; nguy hiểm là khi nấm xâm nhập vào máu thì chúng có thể gây chết người. Là loại động vật máu nóng, con người và các động vật có vú khác được ban cho một mức độ bảo vệ nhất định: Hầu hết loại nấm thích nhiệt độ thấp hơn; chúng ta lại tỏa thân nhiệt quá cao trong quá trình hoạt động.

Song sự nóng lên toàn cầu và những tiến bộ y tế đang làm tình hình thay đổi, Monosson cho biết. Một số loại nấm có thể đang tiến hóa để chịu được nhiệt độ cao hơn; bà giải thích cách bệnh nấm sâu Coccidioidomycosis [valley fever], do bào tử nấm trong đất ở miền Tây Nam [nước Mỹ] gây ra, có nhiều khả năng lây lan rộng hơn khi khí hậu thay đổi. Tuy việc cấy ghép nội tạng và điều trị ung thư đang cứu sống nhiều người, nhưng đồng thời cũng đang tạo ra một nhóm dân số bị suy giảm miễn dịch ngày càng tăng. Monosson viết: “Chúng ta đang sống thọ hơn và khỏe hơn nhưng ngày càng dễ bị nấm xâm nhiễm hơn”. Và bởi vì các tế bào nấm có một số điểm tương đồng về cấu trúc với tế bào của chúng ta nên rất khó để phát triển các loại thuốc nhằm tiêu diệt chúng mà không gây hại cho chúng ta. Amphotericin, loại thuốc kháng nấm ra mắt năm 1959, có tác dụng phụ khủng khiếp và có khả năng gây tử vong đến mức bác sĩ gọi nó là “Ampho tai hại”.

Có lý do để cổ vũ cho tế bào và những loại virus được nuôi bằng chúng

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Hai cuốn sách mới khiến người ta chú ý vào những khám phá cũ có tiềm năng chữa khỏi những chứng bệnh nan y và phát lộ những bí mật sinh học.

Những năm 1910, hơn một thập kỷ trước khi phát hiện ra penicillin, Felix d'Herelle, nhà vi trùng học có phong cách tự-thân, đang nuôi cấy vi khuẩn gây tiêu chảy trong phòng thí nghiệm. Là nhà khoa học ít bằng cấp và xuất thân mơ hồ – chẳng ai biết ông là người Pháp, người Bỉ hay người Canada – d'Herelle hy vọng gây ra bệnh dịch tiêu chảy giữa nạn dịch châu chấu đang hoành hành ở Mexico và bằng cách đó tiêu diệt chúng.

Trong khi nuôi cấy món súp vi khuẩn chết người của mình, ông nhận thấy thứ gì đó lạ lùng. Một thực thể bí ẩn để lại những lỗ hổng trên một trong những mảng vi khuẩn mỏng của ông. Ông lấy mẫu từ bên trong các lỗ, phết chúng lên những đĩa vi khuẩn khác và thu được kết quả tương tự. Nhiều lỗ hơn! Ông biết mình đã nắm được cái gì đó, nhưng nó là gì? Thủ phạm, mà hồi sau mới biết, là một thể thực khuẩn, một loại virus “ăn thịt” vi khuẩn.

Trong khi các sự kiện gần đây cho chúng ta lời nhắc nhở đau đớn về những loại virus vô cùng độc hại làm chúng ta khốn đốn, cuốn “The Good Virus” (“Virus hữu ích”) của Tom Ireland là câu chuyện sinh động mang tính cứu rỗi về thể thực khuẩn cực kỳ phong phú song thường bị phớt lờ, và về tiềm năng của nó có thể dập tắt mối đe dọa hiện hữu của sự kháng thuốc kháng sinh, sự kháng thuốc mà các nhà khoa học ước tính đến năm 2050 có thể gây ra 10 triệu ca tử vong mỗi năm. Là nhà báo khoa học từng đoạt giải thưởng, Ireland tiếp cận chủ đề cuốn sách đầu tay của mình với sự tò mò và đam mê, mang đến cho độc giả câu chuyện kể tài tình, phong phú và dễ tiếp cận.

Trong tay của d’Herelle và những người khác, thể thực khuẩn này đã trở thành công cụ đắc lực trong cuộc chiến chống lại dịch tả. Thế nhưng vào những năm 1940, khi việc phát hiện ra các phương pháp sản xuất penicillin ở quy mô công nghiệp dẫn đến “kỷ nguyên kháng sinh”, liệu pháp thực khuẩn bắt đầu bị coi là thủ đoạn lang băm ở châu Âu và châu Mỹ, mà theo giả thuyết của Ireland, một phần là bởi, không giống như các thể thực khuẩn, thuốc kháng sinh phù hợp với khuôn mẫu của xã hội tư bản chủ nghĩa,.

Các nhà tư bản rất thích bằng sáng chế. Một sự châm biếm tức cười của hệ thống bằng sáng chế là ta không thể cấp bằng sáng chế cho tất thảy những thứ ở dạng thiên nhiên, nhưng đôi khi ta có thể cấp bằng sáng chế cho phương thức ta chiết xuất các sản phẩm phụ của chúng. Các loại thuốc kháng sinh đầu tiên, là những chất tiết ra từ nấm, dễ dàng được cấp bằng sáng chế ở Mỹ hơn so với các thể thực khuẩn, vốn là virus toàn phần.

Các nhà vi trùng học thời kỳ đầu thường thu hoạch các thể thực khuẩn từ một bệnh nhân và đưa chúng vào một bệnh nhân khác mắc bệnh tương tự, song chẳng có cách nào là dễ dàng để tách loại virus có ích ra khỏi mọi chất có thể gây ô nhiễm khác. Các thể thực khuẩn cũng chỉ cho kết quả tốt nhất đối với các loài vi khuẩn riêng biệt, vì vậy chúng kém hiệu quả hơn so với các loại thuốc kháng sinh như penicillin, những loại thuốc có thể tấn công những mầm bệnh trên phổ rộng hơn nhiều.

Liệu pháp thể thực khuẩn tạo được danh tiếng tốt đẹp hơn ở Liên Xô hầu như chỉ vì tư tưởng hận thù, đặc biệt là sau khi các siêu cường kình địch với nhau đã biến các phương pháp sản xuất penicillin của phương Tây thành một bí quyết trong Chiến tranh Lạnh. Độc dược từ thể thực khuẩn phát triển mạnh ở Tbilisi, Georgia, nơi công trình của d’Herelle truyền cảm hứng cho các nhà nghiên cứu thành lập một viện nghiên cứu do nhà nước tài trợ. Ireland kể câu chuyện hấp dẫn về sự kiện các thể thực khuẩn thu được từ xác chết của lính Đức giúp Liên Xô đánh bại Đức quốc xã khi dịch tả bùng phát trong cuộc bao vây Stalingrad ra sao.

Bói lá trà xem cái kết cuộc chiến ở Ukraine

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Trong một số cuốn sách gần đây, các chuyên gia về Nga và Ukraine cân nhắc tầm quan trọng của Tập đoàn Wagner và cố gắng tiên đoán cuộc xâm lược của Putin sẽ diễn tiến ra sao.

Cuộc xâm lược của Nga vào đất Ukraine khởi đầu từ Tháng Hai năm ngoái đã dẫn đến cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Âu trong nhiều thế hệ. Thậm chí trước khi Tập đoàn Wagner – lực lượng bán quân sự với 50.000 lính tinh nhuệ trước đó từng chiến đấu sát cánh cùng binh lính Nga – tuần trước giành quyền kiểm soát các địa điểm quân sự ở thành phố Rostov trên sông Đông ở phía tây nam nước Nga, với mục đích tuyên bố ra ngoài là để lật đổ bộ chỉ huy quân sự của Moscow, thì cuộc xâm lược Ukraine có vẻ như là một thất bại lớn đối với kẻ châm ngòi chiến tranh: Tổng thống Vladimir Putin. Trong vòng một tháng kể từ khi cuộc chiến tranh nổ ra, nó đã trở thành “sai lầm có tầm vóc lịch sử”, như cách diễn đạt của một phóng viên kỳ cựu của Ukraine gần đây. Thế nên chẳng lấy gì làm lạ khi năm nay đã xuất hiện một số cuốn sách mới nhằm tóm lược cuộc xung đột đó và suy ngẫm xem cái kết của nó có thể sẽ như thế nào.

Khi cân nhắc xem cuộc chiến sẽ đi đến đâu, thật hữu ích nếu bắt đầu bằng cách ghi nhớ cho đến nay nhiều nhà quan sát Nga đã sai lầm đến thế nào về diễn biến của nó. Quay lại thời điểm cuộc chiến mới bắt đầu, tờ báo Nga Izvestia đảm bảo Ukraine sẽ thất bại trong vòng năm ngày kể từ cuộc tấn công đầu tiên. Năm tuần sau cuộc xâm lược đó, người phát ngôn của Putin tuyên bố rằng quân đội Ukraine “đã bị tiêu diệt phần lớn”.

Song một cuộc chiến nhằm làm suy yếu các nhà lãnh đạo của Ukraine và NATO trái lại đã khiến cả hai trở nên mạnh mẽ hơn. Bulgaria, Romania và ba quốc gia vùng Baltic đều lên tiếng cực lực phản đối những hành động của Putin. Một thực tế ít được phương Tây chú ý hơn là cuộc chiến của Nga cũng khiến các quốc gia thuộc Liên Xô cũ như Azerbaijan và Kazakhstan trở nên kém thân thiện với Nga đến mức nào.

Công bằng mà nói, nhiều nhà phân tích không phải của Nga cũng đoán trật lất. Ngay trước cuộc chiến này, nhà sử học người Mỹ gốc Scotland Niall Ferguson viết rằng Ukraine sẽ "không nhận được sự hỗ trợ quân sự đáng kể nào từ phương Tây" và phỏng đoán về địa điểm diễn ra lễ duyệt binh mừng chiến thắng của Putin. Khi cuộc xâm lăng mở màn, có tin là vị Bộ trưởng tài chính Đức và cũng là một sĩ quan trong Lực lượng Dự bị Không quân Đức nói với vị đại sứ Ukraine rằng cuộc chiến tranh này sẽ kết thúc chỉ sau vài giờ. Vị đại sứ đã rơi nước mắt.

Vậy thì bây giờ xem ra ai là người đoán trúng?

Cuốn sách kích thích tư duy nhất trong loạt sách mới về cuộc chiến ở Ukraine là cuốn RUSSIA AGAINST MODERNITY (NƯỚC NGA CHỐNG LẠI SỰ HIỆN ĐẠI), cuốn sách ngắn gọn và sâu sắc của Alexander Etkind (NXB Polity, 166 trang, bìa mềm, giá 19.95 USD). Cuốn sách được đặt vào bối cảnh tương lai và được coi là phân tích hậu chiến về nguyên nhân vì đâu Nga bị chiến bại ở Ukraine. Etkind, giáo sư tại Đại học Trung Âu ở Vienna, phát triển những phỏng đoán của mình từ những khiếm khuyết của xã hội mà Putin xây dựng – một quốc gia phản dân chủ, sống nhờ vào dầu mỏ với bề dày lịch sử 2/3 kim ngạch xuất khẩu dựa vào nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ và khí đốt. Việc khai thác dầu khí chủ yếu được kiểm soát ở Nga bởi các chính trị gia và cựu nhân viên an ninh, những người coi trọng lòng trung thành chính trị hơn năng lực quản lý rất nhiều.


Etkind mô tả cuộc xâm lược của Putin là "cuộc chiến tranh giữa các thế hệ", ông lưu ý rằng nội các Ukraine được cấu thành với đa số là những người dưới 50 tuổi, trong khi đó hầu hết thành viên trong nội các Nga đều lớn tuổi hơn. Ông ám chỉ rằng các quan chức điều hành nước Nga của Putin biết rõ họ không thể cạnh tranh trong một thế giới hậu-dầu-mỏ, và bởi vậy họ thấy bị sự hiện đại đe dọa về mọi mặt, từ nền dân chủ đến biến đổi khí hậu cho đến sự khoan dung đối với giới đồng tính luyến ái. Etkind mô tả các nhà lãnh đạo Nga như những hóa thạch sống đang sống nhờ vào nhiên liệu hóa thạch. Quan điểm của ông có lý: Lần cuối cùng người ta mua một con chip máy tính do Nga sản xuất là khi nào vậy?


Góc nhìn hay nhất về cuộc chiến thực sự có lẽ là cuốn OVERREACH: The Inside Story of Putin’s War Against Ukraine (MƯU CAO: Câu chuyện nội tình về cuộc chiến của Putin chống lại Ukraine) (NXB Mudlark, 414 trang, bìa mềm, gia 21.99 USD) của nhà báo Owen Matthews. Ông cho chúng ta góc nhìn bao quát trung thực, sáng rõ về các cấp độ khác nhau của cuộc xung đột này, từ mặt trận đến lập trường của các chính phủ tham chiến cho đến tác động lên thường dân.

Matthews, phóng viên thường trú ở Nga của tạp chí tuần tin tức The Spectator, trước đây từng làm việc ở Nga cho cả tờ The Moscow Times và tạp chí tuần tin tức Newsweek. Cuộc bàn luận bi quan của ông về nguyên nhân vì sao hầu hết người Nga ủng hộ cuộc chiến của Putin, chí ít là cho đến gần đây, đang dóng hồi chuông cảnh tỉnh. Sự phụ thuộc của quân đội Nga vào bọn lính đánh thuê cấu thành Tập đoàn Wagner là then chốt của vấn đề. Wagner chiêu mộ tân binh trong số “những tên trộm cắp và những kẻ giết người, những đứa trẻ nghèo từ các tỉnh vùng xa và lính tráng từ các nước cộng hòa dân tộc thiểu số hẻo lánh”, Matthews viết. “Việc dành riêng thương vong cho một đội quân cảm tử đã làm giảm khả năng xảy ra phản ứng dữ dội của quần chúng.”

Một nỗ lực báo chí khác, không triệt để bằng nỗ lực của Matthews, là cuốn THE WAR CAME TO US: Life and Death in Ukraine (CUỘC CHIẾN ĐÃ ĐẾN CHỖ CHÚNG TÔI: Sống và chết ở Ukraine) (NXB Bloomsbury, 374 trang, giá 28 USD) của Christopher Miller. Miller, phóng viên thường trú ở Ukraine của tờ The Financial Times, dành hơn một thập kỷ cho việc đưa tin từ đất nước này. Cuốn sách cho tôi cảm tưởng giống như “bản sắp xếp lại sổ tay ghi chép” của một phóng viên, mà trong đó tác giả đơn giản chỉ ném những ghi chú hiện trường cũ vào bản thảo mới. Cũng như nhiều cuốn sách khác về chiến tranh, Miller không đi sâu vào cuộc xâm lược của Nga ở quy mô toàn diện cho đến hơn một nửa cuốn sách của anh – nhưng khi đã đi sâu vào, anh đặc biệt tài tình trong việc kể lại những ngày đầu hỗn loạn, bấp bênh của cuộc chiến. Theo tường thuật của Miller, một số quan chức an ninh Ukraine đang hợp tác với người Nga và các phần tử nằm vùng của Nga ở Kyiv được kích hoạt để tiến hành những vụ ám sát và phá hoại.


Cuốn THE RUSSO-UKRAINIAN WAR: The Return of History (CUỘC CHIẾN TRANH NGA- UKRAINE: Lịch sử lặp lại) (NXB Norton, 376 trang, giá 30 USD) của nhà sử học Ukraine Serhii Plokhy có phần khô khan hơn, dù ông chắc hẳn đã đúng khi lưu ý rằng một tác động của cuộc xâm lược đó đã nhìn thấy rõ: “Dân tộc Ukraine sẽ trỗi dậy sau cuộc chiến này đoàn kết hơn và chắc chắn về bản sắc của mình hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử hiện đại của dân tộc ấy”.

Cuốn sách PUTIN’S WAR ON UKRAINE: Russia’s Campaign for Global Counter-Revolution (CUỘC CHIẾN CỦA PUTIN VỚI UKRAINE: Chiến dịch phản cách mạng toàn cầu của Nga (NXB Đại học Oxford, 603 trang, giá 29,95 USD) của Samuel Ramani là cuốn sách khó đọc, nhưng những mô tả bách khoa của nó có thể cho ta những chi tiết thú vị và phân tích chiến thuật đáng tin cậy nào đó. Thật thú vị khi anh lưu ý rằng sự phụ thuộc của Putin vào Tập đoàn Wagner “cho phép ông ta tạo ra một quyền lực từ trên xuống để thay thế , quyền lực này củng cố sự kiểm soát của cá nhân ông ta đối với chính sách an ninh” và “che chở cho Putin khỏi một cuộc đảo chính nội bộ khi chiến tranh không diễn tiến theo đúng kế hoạch”.

Là chuyên gia về chính trị và quan hệ quốc tế tại Oxford, Ramani lập luận rằng các đồng minh kém hiệu quả nhất của Nga trong cuộc chiến là các đơn vị Chechnya. Điểm yếu của quân Chechnya, như anh nói, là họ đã quen với việc đàn áp dân thường và không chiến đấu với các đối thủ có vũ trang trên chiến trường. Tổng thống Volodymyr Zelensky của Ukraine vẫn sống sót sau hàng chục vụ mưu sát. Thật may cho ông này, nhiều vụ trong số đó, như tin đã đưa, là do các đơn vị thuộc lực lượng đặc biệt Chechnya được Putin giao nhiệm vụ ám sát thực hiện, trong khi những vụ khác do Tập đoàn Wagner tiến hành.

Một câu hỏi cứ ám ảnh mọi nơi là liệu Nga cuối cùng có sẽ chiến bại hay không. Tuyên ngôn chính thức trong chính quyền Putin là Nga sẽ thắng thế nhờ “các quá trình lịch sử khách quan”, theo cách diễn đạt của Ngoại trưởng Sergey Lavrov. Kết luận của Ramani cũng tờ mờ gần như thế: “Nga không thể chiến thắng và không thể để mình chiến bại trong cuộc chiến này.”

Matthews, sáng tỏ hơn chút ít, lập luận rằng cuộc chiến tranh này chỉ có thể kết thúc bằng một cuộc thương lượng hòa giải, mà Putin sẽ tô hồng là một chiến thắng. Ông cũng phỏng đoán dẫu rằng sau đó Putin có bị hạ bệ, thì ông ta có thể sẽ bị thay thế bởi một người theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu cứng rắn, hàm ý một Putin bị tổn hại còn tốt hơn một Putin bị lật đổ.

Plokhy, bất chấp dự đoán của mình về dân tộc Ukraine đoàn kết lại, lập luận rằng Ukraine sẽ mất một phần lãnh thổ của mình vào phạm vi ảnh hưởng của Trung-Nga, với đường phân chia tượng trưng cho Bức màn sắt của thế kỷ 21.

Etkind, người có sức thuyết phục nhất trong số này, dự đoán một kết quả khác xa: Không những Putin sẽ thua mà hậu quả là Liên bang Nga sẽ tan rã, hàm ý rằng Chechnya và các khu vực khác sẽ lơi lỏng quan hệ với Moscow hoặc trở nên hoàn toàn độc lập. Tôi đồ rằng ông đoán đúng. Năm 2005, ai cũng biết là Putin đã than thở rằng sự sụp đổ của Liên Xô là “thảm họa địa chính trị vô cùng to lớn” của thế kỷ 20. Sẽ thật mỉa mai nếu cuộc chiến của ông ta hoàn tất sự tan rã của Liên Xô.

Song cuộc chiến ở Ukraine cho tới giờ đã bỡn cợt nhiều nhà quan sát và những người tham gia, vậy nên chúng ta cần cẩn trọng đừng đặt quá nhiều niềm tin vào bất kỳ lời tiên đoán nào.

Tuesday, September 3, 2024

Khi xã hội sụp đổ, những nhà giao dịch này vớ bẫm

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Trong cuốn “Chaos Kings” (“Những ông vua thời hỗn loạn”), Scott Patterson tóm lược tiểu sử các nhà tài chính xây dựng danh mục đầu tư dựa trên những khoản lỗ hằng ngày, và – khi thảm họa xảy đến – gặt hái những khoản lãi khủng.

Đa phần mọi người đều biết có những người dường như cảm thấy thích thú một cách tai quái khi tưởng tượng ra những tình huống xấu nhất. Trong cuộc sống, đây thường là chiến thuật đối phó được tạo ra để xoa dịu những cú choáng váng vì thất vọng. Trên thị trường, đó là một cách để kiếm hàng tỷ đô la.

Nhưng biến sự lo lắng của thị trường thành lợi ích cá nhân một cách ngoạn mục – bằng cách bán khống cổ phiếu đề phòng trường hợp nền kinh tế chao đảo – có thể là một chiến lược đáng ghê tởm, và chẳng phải chỉ vì nó có nghĩa là thu lợi từ những thảm họa như Ngày 11/9 và đại dịch Covid. Theo quan điểm của Nassim Taleb, nguyên là nhà giao dịch chứng khoán phái sinh và là tác giả của thuyết “Black Swan” (“Thiên nga đen”), việc đặt cược vào thảm họa đòi hỏi phải chấp nhận thực tế là chúng ta không bao giờ biết được khi nào nó sẽ ập đến. Mặc dù điều này nghe có vẻ như một chân lý hiển nhiên chả có gì là thú vị, song nó hầu như đối nghịch với sự thông thái truyền thống ở Phố Wall, sự thông thái vẫn luôn cho rằng với những mô hình thống kê phù hợp, hầu như mọi kết quả đều có thể định lượng được. Giải pháp thay thế đáng sợ sẽ là thừa nhận rằng sự hỗn loạn đang ngự trị.

Dĩ nhiên, đó là sự hỗn loạn mà nhờ vào đó Taleb tận hưởng thành công. Ông ta không biết mình là nhân vật chính trong cuốn sách “Chaos Kings” của Scott Patterson phóng viên tờ The Wall Street Journal, biên niên sử được quan sát chặt chẽ về những kẻ săn-bão chúa hay khoe mẽ trong làng tài chính và những nhà phê bình họ thường đụng độ.

Tấn kịch này mở màn trên những giảng đường, trong những phòng hội nghị và trên những sàn giao dịch, những nơi cố nhiên là phù hợp với kịch tính. Trong màn mở đầu, chàng Taleb trẻ tuổi thấy “đôi bàn tay núc ních” của một giao dịch viên nóng nảy trên sàn chứng khoán quấn quanh cổ anh ta. Những người đàn ông hợp thành dàn diễn viên cho màn này đều táo bạo và lập dị. Họ lái mô-tô với “tốc độ tự sát”, và thuê những võ sư kung fu để học tán thủ [qinna], kỹ thuật võ thuật phức tạp nhằm tiêu hao năng lực thể chất của đối thủ. Và họ học cách yêu thích việc thua lỗ mỗi ngày, để sau này họ có thể thắng lớn.

Tài năng, ma lực, tiền bạc, lừa đảo: Chào mừng đến với Thế giới Mỹ thuật

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Orlando Whitfield (bên trái) và Inigo Philbrick. Philbrick thú nhận trước tòa rằng anh ta đã v...