Search This Blog

Saturday, November 23, 2024

Nữ hoàng Chiến binh mang theo đầu kẻ thù trong túi và những câu chuyện bị lãng quên

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong tác phẩm “The Missing Thread” (Mảnh ghép lịch sử còn thiếu), nhà sử học cổ điển Daisy Dunn đã bổ sung thêm nhiều chi tiết cho bức tranh toàn cảnh về thế giới cổ đại.

Tomyris, nữ hoàng chiến binh của bộ tộc Massagetae (nhiều thế kỷ sau được tôn vinh trong cuốn sách này) là một trong nhiều nhân vật cổ đại được nhà sử học Daisy Dunn giới thiệu.

Hiện nay đang có xu hướng kể lại thần thoại và lịch sử cổ điển theo quan điểm của chủ nghĩa nữ quyền. Đây không chỉ là xu thế trong ngành xuất bản, mà còn phản ánh nhu cầu thực sự muốn tìm hiểu những câu chuyện về phụ nữ trong thế giới cổ đại, những người lâu nay thường bị bỏ qua hoặc không bao giờ được ghi chép lại trong lịch sử.

Cuốn sách mới của nhà sử học cổ điển Daisy Dunn, “The Missing Thread,” là tác phẩm nghiên cứu kỹ lưỡng và sâu rộng, ở mức độ nhất định, là phiên bản hoàn chỉnh hơn về thế giới Địa Trung Hải từ nền văn minh Minoa đến Đế chế La Mã sơ kỳ. Theo tác giả Dunn giải thích, cuốn sách không chỉ nghiên cứu về phụ nữ mà còn là lịch sử hoàn chỉnh của thời kỳ lịch sử cổ đại với mảnh ghép về phụ nữ như đáng ra nên có.



Giống như nhiều nhà sử học cổ điển khác, Dunn bắt đầu sự nghiệp chủ yếu nghiên cứu về nam giới. Cuốn sách đầu tiên của tác giả là cuốn tiểu sử rất thú vị về Catullus, sau đó là bản dịch các tác phẩm của ông; tác giả cũng viết tiểu sử về hai thế hệ nhà Pliny.

Chúng ta biết nhiều hơn về những người đàn ông quan trọng trong lịch sử thế giới cổ đại, đơn giản vì hầu hết tài liệu lịch sử và ghi chép về đời sống phụ nữ đều do đàn ông viết ra. Điều này dẫn đến những trớ trêu thú vị; hầu hết phụ nữ Athens cổ đại bị hạn chế quanh quẩn trong nhà, trong khi đàn ông lại viết và diễn các vở kịch về những nhân vật phụ nữ nhân ái, tài năng và đáng sợ. "Đàn ông dường như không nghĩ rằng phụ nữ thực sự có thể đang sống cuộc đời thú vị như trong kịch vậy", Dunn nhận xét.

Theo tác giả Dunn, phụ nữ cổ đại tham gia vào hầu hết mọi việc. Vai trò của phụ nữ phụ thuộc vào đặc thù của nền văn hóa và từng thời điểm nhất định; cũng như cách chúng ta lý giải bằng chứng lịch sử. Chẳng hạn, sự phổ biến của phụ nữ trong nghệ thuật Minoa cho thấy Crete có thể là chế độ mẫu hệ, hoặc ít nhất cũng bình đẳng. Ở Scythia, một số phụ nữ được chôn cất cùng với vũ khí và có dấu hiệu vết thương chiến đấu, cho thấy nữ chiến binh có thể tương đối phổ biến, thậm chí có khả năng đó là nguồn cảm hứng cho truyền thuyết về người Amazon. Phụ nữ Etruscan có mức độ tự do tình dục đáng kinh ngạc (theo quan điểm của các nhà quan sát Hy Lạp); và nhiều nền văn hóa, như Kush ở miền bắc Sudan, thường do nữ hoàng cai trị. Nhưng ngay cả trong các nền văn minh áp bức cao hơn, phụ nữ vẫn tham gia vào nhiều hoạt động: thợ làm bánh, thợ dệt, kẻ đầu độc, nhà tài trợ, cũng như các vai trò truyền thống hơn như làm vợ, làm mẹ và quán xuyến gia đình.

Dunn dành nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ khảo cổ và ghi chép về những phụ nữ ít được biết đến, bên cạnh những cá nhân nổi tiếng nhưng thường bị coi chỉ là ngoại lệ. Chẳng hạn, tác giả Dunn nhắc độc giả rằng Sappho nổi tiếng như vậy một phần do tác phẩm của các nhà thơ nữ cùng thời với bà đã bị thất lạc. Có thể Sappho không phải nhà thơ nữ hiếm có — mà chỉ là một nhà thơ chúng ta được biết đến.

Độc giả cũng được gặp công chúa Sumerian Enheduanna — một trong những nhà thơ đầu tiên được ghi danh trên thế giới — từng viết bài thơ kêu gọi nữ thần Inanna trả thù kẻ hãm hại mình (và đã đạt được mong muốn). Còn có Pamphila xứ Epidaurus, nhà sử học viết nên 33 tập lịch sử thế giới bị thất lạc; Telesilla xứ Argos, nhà thơ ốm yếu mãn tính nhưng có hành động đầy anh hùng trong cuộc bao vây thành phố, sau này được vinh danh trong một lễ hội hóa trang hàng năm; và — nhân vật tôi yêu thích nhất — Tomyris, nữ hoàng chiến binh của bộ tộc Massagetae, đã đánh bại Cyrus xứ Ba Tư trong trận chiến, người ta đồn bà mang theo cái đầu bị cắt đứt của đối thủ trong một cái túi đẫm máu.

Tác giả Dunn nhấn mạnh, ngay cả khi phụ nữ không chặt đầu kẻ thù hay viết nên những bài thơ nổi tiếng, họ vẫn có đời sống nội tâm và quyền tự chủ. Họ không chỉ ngồi đó chờ bị tấn công hoặc bị cưới gả vì lợi ích chính trị hoặc chờ chết khi sinh con (mặc dù nhiều người gặp phải số phận như vậy).

Một số thay đổi trọng tâm của Dunn khá tinh tế. Lịch sử về mâu thuẫn giữa Caesar và Cato, rồi sau này là giữa Caesar và Brutus, thường tập trung vào nam giới, nhưng Dunn đưa Servilia — Caesar là người tình lâu năm của bà, Cato là anh trai cùng cha khác mẹ, và Brutus là con trai bà — vào trung tâm câu chuyện. Bỗng nhiên những căng thẳng giữa những người đàn ông trở nên rõ ràng hơn nhiều, và vai trò của Servilia cũng thú vị hơn. Tác giả Dunn rầu rĩ tiếc rằng không có tác phẩm nào của Servilia còn sót lại để kể cho chúng ta biết cảm nhận và suy nghĩ của bà ở mỗi giai đoạn của câu chuyện thị phi— nhưng dù sao thì Servilia cũng từng có cảm nhận và suy nghĩ. Rốt cuộc thì bà ấy cũng là một con người thực sự từng sống.

Giống như nhiều tiểu thuyết gia đang viết lại các câu chuyện theo quan điểm chủ nghĩa nữ quyền, tác giả Dunn phải dựa vào óc tưởng tượng sáng tạo để lấp đầy những khoảng trống trong ghi chép lịch sử. Rất nhiều chi tiết lịch sử còn thiếu trong bức tranh tổng thể, và cần nhiều nỗ lực nghiên cứu hơn nữa mới làm sáng tỏ được. Điểm yếu đáng kể duy nhất của cuốn sách là đôi khi chuyển chủ đề quá nhanh, nhảy từ nơi này sang nơi khác đột ngột; với tôi nhẽ ra cuốn sách phải dài ít nhất 10 tập mới đủ. Những đoạn kể ngắn gọn, hấp dẫn về văn hóa Trung Quốc gợi mở đề tài cho loạt tác phẩm nghiên cứu sâu rộng hơn về toàn bộ Con đường tơ lụa.

Tác giả Dunn kết thúc cuốn sách bằng lời kêu gọi các nhà sử học tiếp tục tìm kiếm và khám phá những nơi lẽ ra phải có bằng chứng lịch sử nhưng vẫn còn đang thiếu. Cuộc sống của phụ nữ trong lịch sử có thể đã bị bỏ qua hoặc coi nhẹ, do các sử gia nam giới giai đoạn sơ khai không chú ý đến, nhưng phụ nữ luôn hiện diện và đồng hành cùng lịch sử nhân loại.

THE MISSING THREAD: A Women’s History of the Ancient World | By Daisy Dunn | Viking | 480 pp. | $35

Lyta Gold is an essayist and fiction writer, and the author of the upcoming “Dangerous Fictions: The Fear of Fantasy and the Invention of Reality.”

The Warrior Queen Who Carried a Head in a Bag, and Other Omissions
https://www.nytimes.com/2024/08/06/books/review/the-missing-thread-daisy-dunn.html

Tuesday, November 19, 2024

Piet Mondrian: Một họa sĩ ngăn nắp, một con người cực kỳ lập dị

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,





Một cuốn tiểu sử mới về một trong những họa sĩ tinh hoa nhất của thế kỷ 20.

Họa sĩ David Salle có lần viết – ông trích lời một người bạn – rằng ta có thể nhận ra một trong những bức tranh sơn dầu của Alex Katz nếu nó rơi khỏi máy bay ở độ cao hơn 9.000 mét. Câu này cũng đúng với họa sĩ Hà Lan Piet Mondrian (1872-1944). Những đường kẻ ô và những mảng màu vàng, đỏ và trắng chói sáng của ông có thể được nhận biết tức thì.

Cuốn tiểu sử mới “Mondrian: His Life, His Art, His Quest for the Absolute” (“Mondrian: Cuộc đời, Mỹ thuật, Cuộc kiếm tìm điều tuyệt đối”) của Nicholas Fox Weber là cuốn sách lớn và cực đẹp được ấn hành bởi nhà xuất bản Knopf, nơi đã và đang xuất bản những cuốn sách đẹp trong hơn một thế kỷ nay. Chỉ cần nhìn thoáng qua cuốn “Mondrian” là muốn sở hữu và trưng nó lên. Những gì bên trong cuốn sách lại có ưu điểm đa dạng hơn.

Là người trước đây từng viết về thân thế sự nghiệp của các họa sĩ Balthus và Le Corbusier, Weber vừa cho ra mắt một cuốn sách thiết yếu, ở khía cạnh đây là cuốn tiểu sử đầy đủ hiếm có về Mondrian, nhà họa sĩ ẩn dật phiêu du từ hội họa biểu hình sang trừu tượng hình học và trừu tượng màu sắc táo bạo, và trong quá trình đó trở thành một trong những họa sĩ tinh hoa của thế kỷ 20.

Độc giả tầm thường – như Samuel Johnson gọi bạn và tôi – có thể thấy 600 trang về Mondrian là rất nhiều Mondrian. Điều này đặc biệt đúng vì lối hành văn của Weber khá đơn sắc. Hết bức tranh này đến bức tranh khác được miêu tả chi tiết. Những miêu tả này là chất ru ngủ trong văn chương.

Độc giả này bắt đầu cảm thấy như mình đang nhá một mảnh gỗ. Mỗi khoảnh khắc đều bị giữ nhịp quá lâu. Song Mondrian là một người cực kỳ lập dị, và những chi tiết về sự hiện tồn của ông giống như người ngoài hành tinh khiến ta phải lật giở từng trang.

Cha ông là hiệu trưởng một trường học, một người theo đạo Tin lành Chính thống nghiêm khắc và khắt khe, không muốn con trai mình trở thành họa sĩ. Nhưng một trong những người chú của Mondrian là họa sĩ mỹ thuật công nghiệp thành đạt, người chú này đã dạy ông học và thúc giục ông.

Những năm khởi đầu sự nghiệp tại Amsterdam, Mondrian vẽ những bức tranh dễ bán để sống trong khi thu hẹp [tiêu điểm] và giản lược tác phẩm của mình, đặc biệt là trong những bức tranh ông vẽ những bông cúc đại đóa đơn sắc. Phong cách ngày càng trừu tượng của ông có nguồn gốc Lập thể.

Năm 1917, ông chung tay khởi lập tạp chí de Stijl (“Phong cách”) rất có ảnh hưởng của Hà Lan và trường phái nghệ thuật cùng tên. Đặc trưng của trường phái này là tuyệt đối sử dụng những đường thẳng và màu cơ bản; tìm kiếm sự hài hòa thông qua bố cục và sự đơn giản.

Mondrian rời Amsterdam đến Paris rồi đến London. Ông là người theo chủ nghĩa bài Do Thái nhưng dù vậy vẫn chẳng vui gì khi bị đội quân xâm lăng của Hitler buộc phải rời khỏi cả hai thành phố đó. Ông chuyển đến Manhattan năm 1940, nơi ông sống suốt phần đời còn lại, ngày càng nổi tiếng và làm lu mờ các đối thủ. Thế nhưng ông đã phải vật lộn về mặt tài chính cho đến gần cuối đời.



Weber viết Mondrian “chưa bao giờ tỏ ra tự phụ dù chỉ là mảy may”. Bình luận này khó mà tương đồng với nội dung cuốn “Mondrian” được. Đây là cuốn sách nhắc nhở ta về quan hệ gần gũi đến mức nguy hiểm giữa phẩm giá và tính tự đắc. Mondrian sống như một vị sứ thần từ vương quốc của những quan niệm tức cười.Ông say mê thuyết duy linh, tướng số học và những chế độ ăn kiêng dị thường. Ông không có óc hài hước và hiếm khi mỉm cười. Cách khiêu vũ kỳ cục của ông khiến người khác cười sau lưng ông. "Ông chỉ di chuyển mỗi đôi chân và giữ cho phần còn lại của cơ thể cứng ngắc, cái đầu nghểnh lên", tác giả viết.

Mondrian không tin tưởng những viên đá vì đồ ăn lạnh không tốt cho sức khỏe. Ông đứng thẳng như tượng và dáng vẻ luôn chỉn chu gọn ghẽ, từ chối cởi áo khoác khi đi cùng người khác ngay cả trong những đêm nóng nực. Ông rất hay độc thoại không ai hiểu nổi và nói những câu kiểu-Garbo như "Dường như anh không hiểu rằng tôi muốn được một mình". Đưa ông vào những tình huống giao tế nhất định chẳng khác gì ném một con mèo xuống bể bơi. Có lần ông bước vào một căn phòng, nheo mũi và nhận xét với chủ nhà rằng "Trong này bốc mùi cũ kỹ".

Mondrian nổi tiếng vì đặt lên môi phụ nữ những nụ hôn kỳ cục, mạnh mẽ và một chiều, có khi kéo dài đến 30 phút. Thế nhưng ông thường cảm thấy phụ nữ là kỳ đà cản mũi đàn ông; nữ giới là "kẻ thù của tinh thần". Có lần ông nhận xét: "Mỗi chút tinh dịch bị xài phí là một kiệt tác bị mất".

Ông xem ra là người vô tính nhưng lại có một loạt tình bạn thân thiết với những người trẻ tuổi đẹp trai. Một số trong những mối quan hệ này có thể là quan hệ thể xác.

Mondrian “từ bỏ màu sắc tự nhiên để đến với màu sắc tinh khiết”, như ông phát biểu trong một bài luận năm 1941. Ông ác cảm với màu sắc tự nhiên đến nỗi ít nhất có ba lần, lúc ăn trưa với bạn bè, ông từ chối ngồi quay mặt ra cửa sổ vì sợ rằng sẽ buộc phải nhìn vào một mẩu nhỏ nhất của một cội cây. Weber lập luận, mà chẳng làm cho ai tin được, rằng điều này là do ông yêu thiên nhiên quá đỗi. Việc phát hiện ra băng keo cách điện đã thay đổi cuộc đời của Mondrian. Trước đó, ông đã mất rất nhiều thời giờ để vẽ, tẩy xóa và di chuyển các đường kẻ trong tác phẩm của mình.

Những căn hộ nhỏ và sơ sài của ông được thiết kế để trông giống như những bức tranh của ông, và ông hiếm khi rời khỏi đó. Ông là người theo thuyết duy ngã, người có thể lao đè lên một quả lựu đạn mà chẳng vì ai cả. Ông có một bản ngã phải được trưng bày tại bảo tàng Smithsonian, trong một chiếc hộp sáng trưng.

Ở ông có điều gì đó như đứa trẻ bị lạc lối, một nét mà cả nhà tài phiệt Howard Hughes và Michael Jackson đều có. Patricia Highsmith có lẽ đã đúng khi bà nhận xét trong nhật ký: "Những nghệ sĩ vĩ đại nhất luôn có tính trẻ con."

Bạn phải tiếp cận cuốn sách này với óc hài hước vì Weber, giống như nhân vật chính của ông, rất ít hoặc không hài hước chút nào. Ông chỉ trích những người thậm chí chỉ nhẹ nhàng phê phán tài năng mỹ thuật hoặc tính cách của Mondrian.

Tác phẩm quan trọng hơn cuộc đời, nhưng cuộc đời đó là thế. Weber đã khiến cho câu chuyện này được kể ra, dù có phần khập khiễng, và ông đính chính lại những lỗi đã vô tình lọt vào những câu chuyện khác. Ông là người giỏi truy tìm dấu hiệu ảnh hưởng của Mondrian, không chỉ đối với các họa sĩ khác mà còn đối với các kiến ​​trúc sư. Chẳng hạn như ta khó có thể tưởng tượng ra kiến trúc sư đại tài Frank Lloyd Wright nếu thiếu Mondrian.

Sức lôi cuốn của Mondrian không có dấu hiệu suy giảm. Năm 2022, một trong những bức tranh của ông được bán với giá 51 triệu USD. Đôi khi, những người đã mua tranh của ông không biết phải treo chúng như thế nào. Phía nào với màu sắc và hình học thuần túy phải được treo lên trên?

MONDRIAN: His Life, His Art, His Quest for the Absolute | By Nicholas Fox Weber | Knopf | 639 pp. | $40

Dwight Garner has been a book critic for The Times since 2008, and before that was an editor at the Book Review for a decade. 

Piet Mondrian: An Orderly Painter, a Deeply Eccentric Man 
https://www.nytimes.com/2024/10/28/books/review/piet-mondrian-biography.html

Sunday, November 17, 2024

Nếu bạn muốn tìm hiểu tại sao nền dân chủ đang bị đe dọa, hãy đọc cuốn sách này

nguồn: New York Times,

biên dịch: Nguyễn Quỳnh Anh,



Trong“Black Pill” (Viên thuốc đen), nhà báo Elle Reeve cho thấy tư tưởng cực hữu ngày trước từng bị gạt ra bên lề giờ đây đã trở thành xu hướng chính thống.

Theo Elle Reeve, cuộc tuần hành Unite the Right năm 2017 tại Charlottesville là cột mốc đánh dấu sự chuyển biến từ thời kỳ quá khứ, khi các hệ tư tưởng thù hận âm thầm tập hợp không ai chú ý, sang đến hiện tại chúng ta đang sống.

Nếu từng xem video về cuộc tuần hành Unite the Right năm 2017, trong đó hàng trăm thanh niên mặc quần kaki diễu hành trên đường phố Charlottesville, bang Virginia, hô vang khẩu hiệu "Người Do Thái không được thay thế chúng ta", rồi một kẻ lái chiếc xe Dodge Challenger đâm vào nhóm người phản đối, rất có thể đó là video do Elle Reeve thực hiện.

Thời điểm đó, tác giả là nhà báo (làm việc tại Vice News, hiện nay đang làm tại CNN) đã theo dõi phong trào cực hữu trong khoảng bốn năm; trước vụ Charlottesville, phong trào này thường bị coi là cực đoan và gạt ra bên lề không ai thèm chú ý, vậy nên biên tập viên tờ báo rõ ràng không thật sự muốn cử Reeve đi đưa tin.



Reeve khắc họa sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực hữu trong “Black Pill”, tác phẩm có giọng kể lạnh lùng nhưng sâu sắc, theo dấu những hình ảnh vui đùa ngớ ngẩn trên internet, chiến thắng năm 2016 của Donald Trump, độ cuốn hút của thuyết âm mưu QAnon, và đỉnh điểm là vụ hỗn loạn ở Điện Capitol. Theo tác giả Reeve, vụ việc Charlottesville là mốc đánh dấu sự chuyển biến từ thời kỳ quá khứ, khi các hệ tư tưởng thù hận âm thầm tập hợp không ai chú ý, sang đến hiện tại chúng ta đang sống. Nếu muốn tìm hiểu vì sao nền dân chủ tự do ngày càng có cảm giác như đang thất thế, và vì sao chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, sự kỳ thị phụ nữ, chủ nghĩa bài Do Thái và kỳ thị người đồng tính đang gia tăng, hãy đọc cuốn sách này.

Reeve bắt đầu đưa tin vào khoảng năm 2013, nhưng văn hóa internet tác giả miêu tả đã bắt đầu ít nhất một thập kỷ trước đó, khi một thiếu niên hack một trang web tiếng Nhật để tạo ra 4chan, diễn đàn trực tuyến tiếng Anh. Trang web này cho phép người dùng đăng hình ảnh ẩn danh, và không bao lâu sau, nó là nơi trú ẩn cho nội dung khiêu dâm và meme đồi trụy. Cuối cùng, nhà phát triển trang web thấy khó chịu, nên bắt đầu chặn những nội dung tồi tệ nhất, đặc biệt là trong sự kiện có tên Gamergate, là chiến dịch quấy rối hàng loạt nhắm vào phụ nữ trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử.

Vì Reeve theo đuổi câu chuyện này từ trước khi nó được đại chúng chú ý, nên tác giả giành được sự tin tưởng của những kẻ cầm đầu, họ sẵn sàng chia sẻ kế hoạch và động cơ của mình — dù đôi khi cũng quấy rối và đe dọa cô. Đến năm 2021, tác giả viết, "cảm giác như chúng tôi là những cựu chiến binh từng chiến đấu ở hai chiến tuyến đối lập. Ít người trên thế giới này chứng kiến sự kiện tương tự. Vì vậy, khi tôi gọi điện đề nghị phỏng vấn, họ rất dễ dàng đồng ý." Do đó, câu chuyện của tác giả trở nên đặc biệt chân thật và gần gũi.

Sau vụ Gamergate, nhiều người dùng chuyển sang 8chan, nơi ai cũng có thể đăng lên mọi thứ. Richard Spencer, kẻ theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng, là diễn giả chính tại sự kiện Unite the Right, là một trong số nhiều người tìm thấy cộng đồng của hắn — thường là nam giới trẻ bị cô lập, tức giận và cô đơn — trên mạng.

Steve Bannon, từng điều hành trang web Breitbart và cựu chiến lược gia trưởng của Trump, hiểu rằng bạn có thể "kích hoạt đội quân ấy", đó chính xác là những gì họ đã làm. Đây là những người, theo cách nói của cộng đồng mạng, đã nuốt "viên thuốc đỏ" lấy cảm hứng từ phim "Ma trận" và thấy được "sự thật".

Có thể họ tin rằng hệ thống xã hội này bị người Do Thái thao túng, hoặc bình đẳng chủng tộc sẽ làm suy yếu chủng tộc da trắng, hoặc Hillary Clinton đứng đầu một tổ chức ấu dâm. Nhưng cuốn sách tỉ mỉ chỉ ra, những niềm tin đó đã dẫn đến các hành động thực tế, như xả súng tại một tiệm pizza, hoặc tấn công vào hệ thống bỏ phiếu bầu cử và đánh cắp phần mềm.

Theo Reeve miêu tả, một mối nguy hiểm thậm chí còn đang sợ hơn đến từ ‘viên thuốc đen’ của chủ nghĩa hư vô. Uống viên thuốc đó "cho phép bạn biện minh cho bất kỳ hành động nào: tàn ác, đe dọa, bạo lực". Tác giả viết, "nếu hành động của bạn gây thêm nhiều bạo lực và hỗn loạn, thì càng tốt, vì như thế sẽ giúp chấm dứt chế độ tham nhũng". Tác giả chỉ ra tư tưởng kiểu này có thể dẫn đến Charlottesville, các vụ thảm sát ở Charleston, Pittsburgh, El Paso và Orlando. Có thể dẫn đến tôn sùng Putin. Hoặc tôn vinh Trump.

Trong tất cả nguồn tin của Reeve, người hấp dẫn nhất là Fredrick “Fred” Brennan, người sáng lập ra 8chan. Brennan cũng quản trị một cộng đồng dành cho những người đàn ông ‘incel’ (là trạng thái độc thân không tình nguyện, ko thể tìm thấy đối tác lãng mạn hoặc tình dục dù rất mong muốn) (Elliot Rodger, kẻ gây ra thảm sát ở Isla Vista, California, nhằm mục đích trả thù phụ nữ vì từ chối hắn và làm hại những người đàn ông hấp dẫn về mặt tình dục, đã trở thành nhân vật anh hùng của nhóm người này.)

Bị liệt phải ngồi xe lăn vì mắc bệnh bẩm sinh, Brennan cũng là người ủng hộ thuyết ưu sinh trong nhiều năm, khẳng định những người khuyết tật nên bị triệt sản, và bày tỏ nỗi tức giận vì cho rằng chính mẹ ruột anh ta không nên sinh anh ta ra đời.

Nhưng rồi anh ta thay đổi. Ban đầu anh này là người theo chủ nghĩa tự do ngôn luận tuyệt đối, tin rằng bản thân đang tạo ra một sân chơi cho các ý tưởng, và những tư tưởng tuyệt vời nhất sẽ vươn lên hàng đầu. Sau đó cũng chính anh ta tuyên bố trang 8chan nên chấm dứt. Từ đó cho thấy người ta có thể thay đổi, phi cực đoan hóa bản thân mình.

Tuy nhiên, dù đã ngừng quản lý 8chan từ năm 2016, Brennan chỉ là một cá nhân. Và ngay sau đó, 8Chan chuyển sang chủ sở hữu mới đổi tên thành 8kun, cuối cùng trở thành hang ổ của nhóm QAnon.

Những ảo tưởng tập thể đó, dù có vẻ hết sức điên rồ — tin rằng có nhà nước ngầm tồn tại trong chính phủ, được đám người nổi tiếng và lãnh đạo doanh nghiệp hỗ trợ, điều hành một mạng lưới buôn người tôn thờ quỷ Satan — vẫn tiếp tục lây nhiễm vào tâm trí con người cả trên internet lẫn ngoài đời thực. Nếu, như tác giả Reeve tuyên bố, "tư tưởng cực hữu về cơ bản đã chết", thì đó chỉ có nghĩa là rất nhiều ý tưởng và nỗi ám ảnh của tư tưởng này đã trở thành chính thống chứ không còn bị coi là cực đoan.

BLACK PILL: How I Witnessed the Darkest Corners of the Internet Come to Life, Poison Society, and Capture American Politics | By Elle Reeve | Atria Books | 283 pp. | $29.99

Sue Halpern is a scholar in residence at Middlebury College and the author of eight books, including the forthcoming “What We Leave Behind.”

If You Want to Understand Why Democracy Is Under Attack, Read This Book
https://www.nytimes.com/2024/07/30/books/review/ellen-reeve-black-pill.html

Thursday, November 14, 2024

Miền Tây hoang dã trở thành chất liệu cho một câu chuyện hư cấu chân chất một cách kỳ lạ

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Một bức ảnh âm bản trên kim loại năm 1892 cho thấy năm thành viên của băng cướp được gọi là Wild Bunch, năm tên tội phạm khét tiếng phiêu bạt giữa những sào huyệt ngoài vòng pháp luật ở Miền Tây.


Cuốn "Bandit Heaven" (“Thiên đường của kẻ cướp”) của Tom Clavin đưa chúng ta về với bộ phim "Outlaw Trail" (“Đường mòn của những kẻ ngoài vòng pháp luật”) với Butch Cassidy và Sundance Kid.

Khoảng 2 giờ sáng ngày 2/6/1899, người lái tàu trên một chuyến tàu đang chạy về hướng đông bên ngoài thị trấn Wilcox, bang Wyoming, nhìn thấy một người đang vẫy một chiếc đèn lồng đỏ. Khi anh ta phanh lại, một người đàn ông đeo mặt nạ mang súng từ phía sau bò vào buồng lái và bảo: "Này, đồ khốn, hãy làm theo những gì tao nói, nếu không tao sẽ cho mày sáng mắt ra!"

Gã chặn tàu để cướp đó là Butch Cassidy. Kẻ đồng phạm vẫy đèn lồng của y là Harry Longabaugh, thường được gọi là Sundance Kid. Sau khi dùng thuốc nổ để phá cửa hai chiếc két sắt, hai tên cướp và bốn thành viên khác của Băng Wild Bunch biến mất vào màn đêm cùng với 50.000 USD tiền mặt và đồ trang sức.

Đây là vụ cướp thứ ba và có thể là vụ béo bở nhất trong năm vụ cướp được quy cho băng cướp của Cassidy giữa những năm 1896 và 1901. Nó cũng là căn nguyên sự cáo chung của băng này. Một viên cảnh sát trưởng của bang Wyoming đã bị giết trong cuộc đấu súng sau vụ cướp đó, khiến Cassidy (tên khai sinh là Robert LeRoy Parker) trở thành tên tội phạm bị truy nã gắt gao nhất nước Mỹ. Ông chủ của công ty đường sắt Union Pacific là E.H. Harriman nổi giận cử các thám tử của hãng điều tra và an ninh tư nhân Pinkerton và thợ săn tiền thưởng đi lùng sục khắp Miền Tây bằng ngựa và tàu hỏa.

Bộ phim “Butch Cassidy and the Sundance Kid” ra mắt năm 1969 miêu tả lực lượng thực thi thượng thặng của Harriman là những người trong tương lai sẽ thực thi một mệnh lệnh mà vì nó những kẻ ngoài vòng pháp luật chạy đâu cho thoát. Đến cuối thế kỷ 20, nền viễn thông và công cuộc thực thi pháp luật giữa các bang được cải thiện một cách ấn tượng, và đối với những kẻ ngoài vòng pháp luật có mặt trong cuốn “Bandit Heaven” cực kỳ dàn trải của Tom Clavin, điều này có nghĩa là bữa tiệc đã tàn.

Nghề cướp bóc, như Clavin viết, đi “từ chỗ lãng mạn đến chỗ mạo hiểm”. Đây là nói về nó một cách hời hợt, mà thật ra là cánh tay luật pháp ở thế kỷ 19 ngắn hơn, khi Đường mòn của những kẻ ngoài vòng pháp luật chạy dài từ Montana đến Mexico, rải rác những sào huyệt có tên như Hole-in-the-Wall (Hang ổ) và Robbers Roost (Sào huyệt của kẻ cướp). Trong số những thành trì được bao bọc tự nhiên này, nơi giống thiên đường nhất là Brown’s Park, một thung lũng sông diện tích 13.000 mẫu Anh ở phía tây bắc Colorado, hiện là nơi nương náu cho động vật hoang dã của liên bang.

Những kẻ cư trú toàn thời gian ở Brown’s Hole – tên thường được gọi của Brown’s Park – có lẽ thú vị hơn những kẻ phạm tội đi ngang qua. Một gã là Isom Dart, người đàn ông từng là nô lệ, từng là kẻ sống ngoài vòng pháp luật, là người chăn gia súc và là một chú hề tại các cuộc thi cưỡi bò trước khi an cư lạc nghiệp làm một người thợ được kính trọng. Một người khác là Elizabeth Bassett, bà trùm của một gia đình chăn nuôi địa phương, người vui lòng cho những người đàn ông bị truy nã làm nghề chăn bò. Hai cô con gái của bà ta, Josie và “Nữ hoàng” Ann, sống vào thời Eisenhower và sau này đã ghi chép lại những hồi ức của họ về Butch và Sundance trẻ tuổi trong thời kỳ huy hoàng mê hoặc nhất của hai gã.

Đó là một số trong hàng chục nhân vật thơ thẩn ra vào trong câu chuyện thong dong của Clavin, câu chuyện mà khi đọc thường giống như một chuyên mục chuyện phiếm không chính thức về Miền Tây Cũ hơn là một câu chuyện hư cấu có tiết tấu nhanh. Nhiều đoạn văn bắt đầu theo cách trò chuyện thông thường: "Hãy quay lại với Annie Rogers" hoặc "Vì chúng ta có thể không gặp lại anh ta nữa, nên lúc này đây chúng ta không thể bỏ Gunplay Maxwell lại". Chẳng lẽ tác giả không biết rằng chúng ta có sẽ gặp lại nhân vật ngoài lề này hay không? (Thực tế là chúng ta sẽ không gặp lại.)

Có vẻ như mọi tên vô lại có biệt danh ở miền tây Chicago đều có một khoảnh khắc trở thành tâm điểm chú ý trong cuốn sách này. Chính thành phố Chicago cũng vậy, trong một câu chuyện dài về sự nghiệp đầu đời của Charlie Siringo, một "thám tử cao bồi" khét tiếng đã bí mật truy đuổi Cassidy và những kẻ khác.

Một khó khăn đối với bất kỳ nhà biên niên sử nào về Wild Bunch là trong khi Siringo đã viết ba cuốn hồi ký, nhưng trong số đó chỉ có ba lá thư của Cassidy từ trước năm 1901 là còn tồn tại, đó là năm gã và Sundance chạy trốn đến Nam Mỹ cùng Etta Place, một người phụ nữ mà người ta biết rất ít đến nỗi một số nhà sử học khẳng định rằng cô này với Ann Bassett chỉ là một.

Những người hoài cổ và những kẻ bịp bợm đã từ lâu bẻ cong câu chuyện về Wild Bunch theo mục đích của họ, nhưng gần đây đã có nhiều công trình phân biệt sự thật với sự tưởng tượng. Clavin trích dẫn rất nhiều từ hai cuốn tiểu sử tuyệt vời về Cassidy – một của Thom Hatch, một của Charles Leerhsen – và các nguồn thứ cấp khác, việc này không may lại dẫn đến kết quả là làm nổi bật những thiếu khuyết trong cuốn sách của chính ông.

Thậm chí những cảnh hành động cũng thường gây thất vọng, chẳng hạn như một đội báo thù "dừng lại để nổ súng, bóp cò liên hồi kỳ trận". Đây đâu phải là câu chuyện về anh hùng đấu với kẻ ác; lịch sử hiếm khi như vậy. Nhưng thay vì đưa ra những tình huống đen trắng mập mờ, Clavin – tác giả có sách bán chạy về lịch sử Thế chiến II và Miền Tây hoang dã – đã thể hiện cái thiện, cái ác và cái xấu xí bằng cùng một tông đơn điệu. Theo cách đó, khi kẻ xấu xa nhất trong băng Wild Bunch là Harvey Logan rốt cuộc bị bắt sau khi sát hại hai cảnh sát, rồi trốn thoát khỏi nhà tù, chỉ để tự bắn vỡ sọ mình vào lần tiếp theo luật pháp tóm được hắn, đó là vì hắn "thực hiện thêm một cú liều mình".

Lúc bấy giờ Butch và Sundance đã rút về ẩn náu ở Nam Mỹ. Hai gã đã cố gắng và thất bại trong việc hoàn lương – một thất bại tất yếu, một phần do sự cô đơn của Cassidy và thói nghiện rượu của Sundance.

Hai gã này đã chết năm 1908 trong một cuộc đấu súng với binh lính và cảnh sát Bolivia. Một số người mơ tưởng khẳng định bọn họ sống sót – hoặc chí ít cũng chết trong cơn mưa đạn như trên phim ảnh. Sự thực là Cassidy đã giết gã đồng bọn bị thương của mình, rồi tự sát. Thiên đường của kẻ cướp, quả thực là thế.

BANDIT HEAVEN: The Hole-in-the-Wall Gangs and the Final Chapter of the Wild West | By Tom Clavin | St. Martin’s | 294 pp. | $30

Darrell Hartman is the author of “Battle of Ink and Ice: A Sensational Story of News Barons, North Pole Explorers, and the Making of Modern Media.”

The Wild, Wild West Makes for an Oddly Tame Yarn

https://www.nytimes.com/2024/10/30/books/review/bandit-heaven-tom-clavin.html

NGÀY TA ĐÃ YÊU



(Khởi chiếu từ mai 15/11 - nếu là tôi, sẽ dịch là Ta sống trong đời - vừa nghĩ ra thêm: Đời ta đã sống)

Trước khi nhận được thư mời, tôi còn không biết đến sự tồn tại của phim này. Thích Florence Pugh nên ra rạp, hóa ra lại được xem một trong những phim đẹp đẽ nhất năm 2024. Nửa vô tri nửa hữu tri. Dĩ nhiên, đó là nhận xét của riêng tôi.

John Crowley từng đạo diễn Brooklyn (tôi rất thích), màu của We Live In Time cũng tượng tự. Một phim slice of life điển hình, thong thả, chậm rãi, với những khuôn hình giản dị nhưng đẹp, đẹp kiểu đời thường, đẹp kiểu ấm áp, đẹp kiểu yêu thương.

We Live In Time đúng kiểu đưa một cuộc đời từ cuộc đời vào màn ảnh. Nó là những chuỗi ngày bình lặng, là những trải nghiệm giống với trải nghiệm của bao người. Tuy nhiên, nó cũng dạy ta cách đương đầu với biến cố, dạy ta biết thế nào là đồng cảm, dạy ta biết trân trọng từng khoảnh khắc của sự tồn tại.

We Live In Time khiến tôi nhớ đến hai phim “hai người”, nghĩa là tập trung hoàn toàn vào hai nhân vật chính. Một là Marriage Story, một là Nine Songs. Phim này nằm đâu đó ở lưng chừng. Hơn đứt hai phim kia ở những miếng hài thông minh, dí dỏm và thuyết phục.

Xưa nay tôi vẫn luôn thích những phim slice of life kiểu này. Như Paterson. Như Columbus. Như Past Lives. Bởi như tôi vẫn hay chém, cuộc đời của hầu hết chúng ta nó cứ nhàn nhạt vậy thôi, diễn đạt được sự nhàn nhạt đó thế nào để khán giả thấy hay ho mới là thách thức.

Cái sự hay của We Live In Time thật khó viết ra cho đúng để lôi mọi người đến rạp. Nó là một sự thấu cảm bên trong, tôi nghĩ vậy. Còn nếu phải mô tả kiểu xôi thịt, tôi sẽ nói, “phim này độc đáo lắm mọi người ơi. Lần đầu tiên chúng ta được xem Nhện nhọ chén Black Widow hoặc ngược lại, hoặc Nhện nhọ và Black Widow chén nhau. Nhiều lần”.

Tối về xem review, thấy điểm trung bình là 7,1/10. Tôi chấm hẳn 8,5/10. Và tổng kết bằng hai chữ “đáng xem”. Nhưng vẫn chống chỉ định với người thiếu kiên nhẫn, người thích nhanh, kịch tính, người không thích lối kể chuyện phi tuyến tính và người dị ứng với chuyện chửa đẻ.

Vậy thôi.

shared from facebook Hoàng Cương,

Wednesday, November 6, 2024

Những kẻ nhái lại đã tạo ra một số video game nổi tiếng nhất thế giới

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Khách tham quan đang chơi StarCraft II của Blizzard tại hội chợ thương mại Gamescom ở Cologne, Đức, năm 2012.


Cuốn "Play Nice" (“Chơi đẹp”) của Jason Schreier kể câu chuyện về Blizzard Entertainment từ thời kỳ hoàng kim kiêu ngạo và phóng đãng của hãng này trong thập kỷ 90 cho đến đỉnh điểm dư thừa doanh nghiệp của nó.

Cuộc đời văn phòng rất nhọc nhằn. Thậm chí là giữa thế kỷ 19, khi văn phòng hiện đại lần đầu tiên trở thành xu hướng, nó đã tệ rồi: rất nhiều những kẻ thụ động khép kín như nhân vật Bartleby cứ sao chép và sao chép mãi cho đến khi công việc làm họ suy sụp, đến tận thâm tâm họ. "Không giống như việc đồng áng hay nhà máy, công việc văn phòng chẳng tạo ra bất kỳ thứ gì", Nikil Saval viết trong "Cubed" (“Làm việc trong ô ngăn”), cuốn sách lịch sử xuất bản năm 2014 của anh viết về cuộc sống của những người làm công việc văn phòng. "Nhìn từ khía cạnh lạc quan nhất, có vẻ nó tái tạo mọi thứ".

Bạn có thể biến văn phòng thành nơi vui vẻ không? Có lẽ bằng cách sao chép một thứ gì đó thú vị, như một video game chẳng hạn? Theo như gợi ý của Jason Schreier trong "Play Nice" – cuốn biên niên sử chặt chẽ của anh về hãng video game Blizzard Entertainment đang bị khốn khó bủa vây – đó chính là điều mà những người sáng lập mới-tốt-nghiệp-đại-học của hãng là Allen Adham và Mike Morhaime đã nghĩ khi lần đầu tiên khai trương một cơ sở bé tí gần Đại học California, Irvine, hồi năm 1991.

Những lập trình viên ở độ tuổi 20, lười tắm rửa, đôi khi quá khích, thường say xỉn mà họ tuyển dụng không chịu bắt tay vào việc ngay với các game đình đám mà nhờ đó họ nổi tiếng – những cuộc giao tranh kiểu khoa-học-viễn-tưởng trong StarCraft, những vương quốc ảo giả tưởng trong World of Warcraft, những màn đấu súng hoành tráng trong Overwatch. Thay vì thế, họ chấp nhận hợp đồng từ các công ty khác để mua những trò chơi đã nổi tiếng được tạo ra cho một hệ điều hành (ví dụ Windows) và điều chỉnh chúng cho thích hợp với một hệ điều hành khác (ví dụ Commodore 64), quá trình được gọi là quá trình điều chỉnh phần mềm thường liên quan đến việc tái tạo trò chơi đó bằng một ngôn ngữ lập trình khác.

Là phóng viên của Bloomberg, Schreier là người săn tin đầy nhiệt huyết được nhiều người kính trọng trong ngành, với nguồn tin ở mọi ngóc ngách của giới phát triển game, từ những ô ngăn làm việc thiếu ánh sáng đến những văn phòng sáng loáng ở góc tòa nhà cho đến những đấu trường thể-thao-điện-tử nơi các đội mọt máy tính trình chiếu những trận chiến ảo của họ cho đám khán giả náo nhiệt.

Cuốn sách đầu tay “Blood, Sweat, and Pixels” (“Máu, mồ hôi và những điểm ảnh – xuất bản năm 2017) của anh là hợp tuyển tin bài về các nhà phát triển video game lớn và nhỏ, dựa trên hàng loạt cuộc phỏng vấn và moi được những cái nhìn thấu thị đích thực từ các lập trình viên và nghệ sĩ. Ví dụ, nhiều người chơi game, dù họ đang đào hầm ngục để tìm kho báu hay nhấp vào những viên ngọc trên màn hình smartphone, đều chẳng bận tâm nếu thành công của họ phụ thuộc vào may rủi. Một cú nhấp ngẫu nhiên cũng giúp kích thích hormone dopamine tiết ra chẳng khác gì máy đánh bạc ở Las Vegas; nhưng sau nhiều lần thử nghiệm và lỗi hỏng, các nhà phát triển game Diablo III của Blizzard phát hiện ra rằng, do không có giải độc đắc, tốt hơn hết là đảm bảo để nhà cái không phải lúc nào cũng thắng.

Trong cuốn “Play Nice”, Schreier bao gồm toàn bộ lịch sử của Blizzard và dùng ít thời gian hơn để đi sâu vào các lựa chọn thiết kế riêng biệt. Tuy vậy, một cái nhìn thấu thị duy nhất, hoặc một tá, là không đủ để tạo ra một game đình đám từ con số 0, và những nhân vật chính của Schreier cứ loay hoay khi họ cố gắng quá mức để tạo ra tính độc đáo mới mẻ. “Play Nice” chỉ rõ ra rằng Blizzard trở nên lớn mạnh không phải bằng cách chấp nhận may rủi với những ý tưởng mới, mà bằng cách để các nghệ sĩ khác nỗ lực mạo hiểm với hàng trăm quyết định hầu như không thể giải thích được khi thảo luận sâu một game bom tấn và sau đó nhào vào sau lưng họ để nhái lại cái hay nhất – dĩ nhiên là với những tính năng, câu chuyện và nghệ thuật mới.

Khi quyết định nhái lại cái gì, những nhà đồng sáng lập và nhân viên của họ đã theo đuổi những ám ảnh của riêng mình. Hồi giữa thập kỷ 90, họ mua một game mà mọi người hay chơi tại văn phòng, nó là game dành cho một người chơi mô phỏng chiến thuật khoa-học-viễn-tưởng trong Dune II của Westwood Studios, về các gia tộc thù địch khai thác gia vị trên một hành tinh sa mạc, và biến nó thành game dành cho nhiều người chơi mô phỏng chiến thuật giả tưởng trong Warcraft. Phiên bản Blizzard có loài orc và con người khai thác vàng trong một khu rừng, nhưng về căn bản nó y hệt như nhau. "Nếu nhái lại là cách tâng bốc chân thành nhất," một trong những người đồng sáng lập Westwood nói với Schreier, "thì họ đã tâng bốc chúng tôi rất nhiều".

Mỗi bản sao của Blizzard đều mang phong cách riêng – hãng này, mở rộng đến hàng nghìn nhân viên vào giữa thập kỷ 2000, sẽ trở nên nổi tiếng vì thiết kế thông minh của nó mang những khái niệm quen thuộc. Nhưng chiến lược thị trường đầy cảm tính của họ đã chứng tỏ là một mô hình kinh doanh mong manh về lâu về dài. Khi hãng lớn hơn và các nhà phát triển già đi, họ ngày càng xa rời thực tế. Giữa thập kỷ 2010, một lập trình viên của Blizzard đã nghi ngờ rằng game của anh ta là một sự thất bại chỉ vì em trai anh ta nói rằng không có người bạn tuổi teen nào của cậu quan tâm đến nó.

Công ty cũng phải chịu áp lực bởi thứ văn hóa nảy sinh từ những hành vi sai quấy lộn xộn của cánh nhân viên trẻ, đa số là nam giới, cánh này ngủ trên những tấm nệm trong văn phòng và không bao giờ về nhà. Những cảnh mô phỏng Guitar Hero và các trận đấu súng phun bọt Nerf lúc đêm khuya dường như lặp lại cái năng lượng vui nhộn kỳ quặc đã biến Facebook và Google thành những công ty tỷ đô, nhưng câu chuyện mở ra lại phát lộ một thứ gì đó nghịch hành hơn: giống loạt phim truyền hình "Mad Men" (“Những kẻ điên loạn”), nhưng thiếu sự sạch sẽ hoặc bài trí đẹp mắt. Nói một cách lãng mạn, "hầu như mọi lãnh đạo cấp cao nhất tại Blizzard đều bị dính líu với một người nào đó thấp cấp hơn họ trong công ty," Schreier thuật lại. Và trong những năm đầu, chẳng có gì là lạ khi thấy bãi nôn trong những phòng lớn của Blizzard Entertainment hoặc rời khỏi máy tính của bạn và quay lại thì thấy một màn hình đầy nội dung khiêu dâm, như một trò chơi khăm hay ho. Đã có lúc có quá nhiều thứ đổ nát đến nỗi chỉ còn một nửa số ghế văn phòng là có thể sử dụng được.

Nhiều phụ nữ trong câu chuyện này phải đối mặt với sự thù địch và (bất ngờ sao!) mức lương thấp hơn. Xuyên suốt 30 năm và hơn 300 trang sách, Schreier rải rắc những câu chuyện về quấy rối như những vụn bánh mì, cho đến năm 2021 khi một vụ kiện phân biệt giới tính và hành vi tình dục sai trái đẩy hãng này đến chỗ vừa phải đánh giá hành vi cá nhân về mặt đạo đức vừa phải chịu rất nhiều rắc rối về tài chính. Microsoft rình rập đã hàng thập kỷ. Sau cuộc khủng hoảng đó, nó đã nuốt trọn Blizzard là một phần của vụ mua lại trị giá 69 tỷ USD – vụ mua lại lớn nhất trong lịch sử video game.

Một trong những điểm mạnh rất hay của Schreier là anh có thể kiểm soát một đám đông [nhân vật]. Anh duy trì một cách rất thông minh nhiều mạch truyện khác nhau – doanh nghiệp, cá nhân, nghệ thuật – cùng lúc khen ngợi rất nhiều lập trình viên, các nhà thiết kế và các giám đốc chỉ quan tâm đến tiền bạc, tất cả mà không đặt quá nhiều áp lực lên đà phát triển của cuốn sách.

Cái còn thiếu trong câu chuyện bay bổng này là ý thức về trọng lực. Những ông trùm trong ngành và những lập trình viên dày dạn kinh nghiệm của Schreier di chuyển qua một thế giới gần như không có bối cảnh, nơi dường như không có gì tồn tại bên ngoài văn phòng của Blizzard, chẳng có phong trào #MeToo (chất xúc tác hiển nhiên cho vụ kiện kia) hay phản ứng đối với cuộc chiến văn hóa mà trung tâm là dân mọt máy tính được gọi là GamerGate (một ảnh hưởng thấy rõ đến giao diện và thiết kế của video game Overwatch cực kỳ thành công). Câu chuyện này kém hay đi vì cách thuật lại vấn đề đã cản trở Blizzard nhiều năm ròng: Nó phải chật vật để hình dung ra bất kỳ thứ gì ngoài những phòng làm việc và phòng lớn, nơi những người này trải qua mọi ngày đêm trong cuộc đời họ. Đọc một câu chuyện lịch sử bao la như vậy, tôi cứ cảm thấy rằng nếu xóa bớt một số điểm mờ mịt khỏi tấm bản đồ thì hay biết bao.

Tuy nhiên, vẫn có tính cảm động trong đó. Ở một trong những cảnh buồn nhất của cuốn sách, năm 2016 Adham quay lại công ty mà anh đã giúp thành lập, sau 12 năm gián đoạn do kiệt sức. Anh cố gắng dẫn dắt một dự án có tên là Odyssey, phiên bản Minecraft hoặc Rust của Blizzard. Những game này thả người chơi vào một vùng hoang dã hoặc một vùng đất bỏ hoang để tìm thức ăn và chiến đấu. Sự hấp dẫn ở game này là bạn bắt đầu từ con số 0 và dần dần thăng tiến.

Trước đây, Blizzard có thể bỏ ra nhiều năm để hoàn thiện một trò chơi như Odyssey, nhưng vào lúc đó hãng này đã trở thành một gã khổng lồ, được tiếp quản bởi người được nhà phát triển sòng bạc Las Vegas là Steve Wynn bảo trợ, người có phong cách tuyển dụng bảo thủ thiên vị những thành tựu đã được chứng minh của Blizzard, ưa chuộng những sao chép nội tại chứ không phải từ bên ngoài hãng.

Hơn nữa, Odyssey tốn quá nhiều thời gian. Khi nào thì phần tiếp theo của game Diablo ra mắt? Còn bản mở rộng World of Warcraft kế tiếp thì sao? Càng lúc càng nhanh. Blizzard đã trở thành bản sao nhợt nhạt của chính nó. Các game trở nên nhàm chán. Doanh thu giảm sút. Một sự thấu thị nữa nảy ra: Nếu bạn muốn phát triển mạnh, trong video game hoặc trong tự nhiên, việc tái tạo là điều tốt, nhưng thường thì thoát khỏi tổ hợp gen của chính bạn vẫn tốt hơn.

PLAY NICE: The Rise, Fall, and Future of Blizzard Entertainment | By Jason Schreier | Grand Central | 376 pp. | $30

The Copycats Who Made Some of the Biggest Video Games in the World
https://www.nytimes.com/2024/10/10/books/review/play-nice-jason-schreier.html

Sự đột nhập của một người vào khu vực đầu não của phe cực hữu

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,


Quan ngại trước sự chia rẽ chính trị của nước nhà, Jeff Sharlet dấn thân vào cuộc tìm kiếm đầy thống khổ nhằm hiểu được nguyên nhân sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan phản dân chủ. Trong cuốn “The Undertow” (“Sóng dội”), ông ghi lại những điều ông đã khám phá ra.

Tiền đề của “The Undertow”, cuốn sách phóng sự mới đầy thống khổ của Jeff Sharlet, là Hợp chúng quốc đang “tan rã”. Sự tan rã là về mặt chính trị. Nó liên quan đến sự nổi dậy của Donald Trump có khuynh hướng chuyên quyền, đến nỗ lực của các thành viên Đảng Cộng hòa nhằm lật ngược kết quả bầu Tổng thống Joe Biden hồi tháng 1/2021 và, trong nhiệm kỳ tổng thống của Biden, liên quan đến việc Tòa án Tối cao lật ngược lại phán quyết về vụ Roe kiện Wade.

Sự thao túng cực đoan của các quan chức cánh hữu, nếu có thể nói rằng thế, chỉ càng thêm mãnh liệt. Trong vài tuần vừa qua, các nhà lập pháp thuộc Đảng Cộng hòa đã đưa ra các dự luật quy định, thật chứ chẳng bỡn, xóa sổ Đảng Dân chủ ở Florida và tử hình những phụ nữ phá thai ở Nam Carolina. Tòa án Tối cao yêu cầu cung cấp thêm thông tin tóm tắt trong vụ án về “học thuyết cơ quan lập pháp bang độc lập”, một học thuyết pháp lý-chính trị sai trái, mà nếu được thông qua thành luật, sẽ cho phép các cơ quan lập pháp của Đảng Cộng hòa (được phân chia gian lận để giành phần thắng trong bầu cử) thực sự chấm dứt các cuộc bầu cử liên bang dân chủ ở các bang của họ. Nghị sĩ Hạ viện Marjorie Taylor Greene, thành viên Ủy ban An ninh Nội địa của Hạ viện, đã đề xuất ý tưởng về một cuộc “chia tách quốc gia” dọc theo giới tuyến các bang đỏ và xanh. Tiền đề của Sharlet xem ra có vẻ có cơ sở vững chắc.

Sharlet thừa nhận cách đây chưa lâu ông không chịu miêu tả mối đe dọa đối với nền Cộng hòa là “chủ nghĩa phát xít”. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự ​​phản đối việc miêu tả chủ nghĩa Trump hiếu chiến là phát xít dần dà biến mất. Ngoài “nhân cách” của Trump, phong trào mà nhiệm kỳ tổng thống của ông ta đẩy mạnh hiện đang nuôi dưỡng các lực lượng bán quân sự và tôn vinh bạo lực như phương tiện thanh lọc, phát triển mạnh mẽ nhờ việc phân biệt chủng tộc đối với kẻ thù, tuyên bố mình bị ngược đãi vì là “Da trắng”, chẩn đoán nước nhà là suy đồi và ôm chặt lấy huyền thoại của chủ nghĩa xét lại về một quá khứ HÃY LÀM NƯỚC MỸ VĨ ĐẠI THÊM LẦN NỮA.

Thế sự thu hút của chủ nghĩa phát xít này đối với hàng triệu người Mỹ bình thường sẽ được lý giải bằng cái gì? Đây là câu hỏi quan trọng, đặc biệt là vì sự trỗi dậy của chủ nghĩa cuồng tín phản dân chủ của cánh hữu ở Mỹ không có tiền lệ chính đáng. Chủ nghĩa phát xít ở châu Âu và các quốc gia hậu thuộc địa hồi sinh là phản ứng đối với sự suy sụp kinh tế xã hội và tình trạng nghèo đói thảm khốc. Trái lại, phiên bản Mỹ phát triển mạnh mẽ trong một xã hội rất giàu có theo các tiêu chuẩn lịch sử và toàn cầu. Đảng phái chính trị của nó – Đảng Cộng hòa – đang hưởng quyền lực đã được củng cố vững bền, và những kẻ ủng hộ nó cùng các đồng minh doanh nghiệp khó lòng là nạn nhân của tình trạng xã hội hiện tại. Các yếu tố phi vật chất – văn hóa, chủng tộc, địa lý, hệ tư tưởng – phải tham gia vào. Những yếu tố này có thể là gì? “Thuyết thần học” về nguyên nhân đó, phỏng theo thuật ngữ của Sharlet, là gì?

Để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này, ông lao vào cuộc thám hiểm nhân chủng học một-mình kéo dài nhiều năm vào khu vực đầu não của phe cực hữu. Là tác giả của hai cuốn sách về những mối nguy hiểm chính trị do chủ nghĩa Toàn thống Thiên chúa giáo gây ra, ông hiểu rõ lĩnh vực của mình. Ông tham dự các cuộc vận động tranh cử cho Trump (với tư cách là ứng cử viên và tổng thống); ông lái xe khắp đất nước với nỗ lực lần theo dấu vết di sản chính trị-tinh thần của Ashli ​​Babbitt, người nổi dậy bị bắn chết tại Điện Capitol vào Ngày 6/1; ông giao thiệp với các mục sư, những kẻ cuồng súng ống, những tín đồ của phong trào QAnon, các loại lực lượng dân quân và những nghi phạm thông thường khác. Kết quả là một bức tranh cắt dán tỉ mỉ sinh động và hấp dẫn về sự rối loạn chính trị và đạo đức ở Mỹ, một bức tranh phù hợp một cách kinh hoàng với nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của những người theo chủ nghĩa tự do.



Hầu hết các cuộc gặp gỡ của Sharlet đều theo cùng một kiểu cấu trúc cơ bản: ông tiếp cận đối tượng cánh hữu của mình với sự khiêm nhường, thân thiện và tinh thần rộng lượng. Cuộc tương tác là ví dụ minh họa ngắn gọn cho lý tưởng xưa về sự đồng quan điểm đầy thiện chí với nhau; và sau đó là những tín điều của người đối thoại với ông (về ý Chúa, về những đảng viên Đảng Dân chủ thích ấu dâm, về những quyền lực của Trump mà người ta không biết đến, về sự cần thiết của vũ trang tự vệ, v.v.) tự bộc lộ trong lối suy nghĩ tuyệt đối khoan nhượng, đe dọa và ảo tưởng của họ. Sharlet rời khỏi nơi gặp gỡ đó mà cảm thấy rúng động và bi quan hơn bao giờ hết.

Một cốt truyện phụ của cuốn sách là trạng thái thể chất và tinh thần yếu ớt của tác giả. Là người đàn ông trung niên đã trải qua hai cơn nhồi máu cơ tim, ông bị huyết áp cao khi lo lắng và khi đi lại phải mang theo những viên thuốc chữa bệnh tim mạch. (Ông cũng đang cư tang người mẹ kế mà ông yêu quý, tro cốt của bà này được ông chở theo trong ô tô của mình.) Ông thoải mái thừa nhận tình trạng yếu ớt và những nhược điểm của mình, nói không với quan điểm ngạo mạn đặc trưng của các bậc tiền bối văn chương như Joan Didion và V.S. Naipaul. Thật vậy, là một nhà viết tiểu luận, tính chân thực và nghiêm túc của Sharlet bắt nguồn từ tính cách sợ sệt, dễ bị tổn thương của ông, điều này mang lại cho ông sự tín nhiệm về mặt đạo đức mà một nhà văn có vẻ trung lập có lẽ không có.

Sharlet đưa ra một số ý tưởng, hay ho nhất là Chủ nghĩa Trump, với việc nó theo đuổi các thuyết âm mưu, với việc nó không tin tưởng vào kiến ​​thức khoa học và học thuật, với việc nó phân chia thế giới thành những tín đồ và phi tín đồ, tương đồng với hoặc cùng dự phần vào truyền thống Ngộ đạo, với việc nó nhấn mạnh vào ảo tưởng và sự giác ngộ, vào sự thông thái nghịch lý, vào sự thấu thị bí truyền. Song rốt cục ông không bị sa đà vào bất kỳ cái gì trong số đó. Cứ như thể chủ đề của ông không mang quá nhiều suy ngẫm về khái niệm, nên những thách thức chính trị thực tế mà nó gợi ra rất nghiêm trọng và cấp bách.

Như tiêu đề cuốn sách của ông ngụ ý, Sharlet tin rằng những gì ông đang ghi lại có thể chẳng là gì khác ngoài “sóng dội lại từ cuộc nội chiến”. Ông phát hiện ra rằng dự đoán về cuộc nội chiến đã khích động mạnh các nhóm cực hữu. Mặc dù giữ vững lòng tin vào tấm gương đạo đức và chính trị của các ca sĩ kiêm nhà hoạt động Harry Belafonte và Lee Hays (những người mà ông lần lượt dành toàn bộ chương đầu tiên và cuối cùng tuyệt đẹp của cuốn sách này viết về họ), Sharlet thừa nhận ông vẫn quan ngại sâu sắc.

Có thể nói rằng bất cứ ai dành quá nhiều thời gian với những kẻ cực đoan chính trị sẽ nảy ra nỗi lo sợ quá mức về chủ nghĩa cực đoan chính trị. Nhưng cũng có thể nói rằng sự tự mãn đã là một nguyên nhân quan trọng khiến chúng ta phải đối mặt với tình huống một trong hai đảng chính trị của chúng ta không còn tận tâm với nền dân chủ tự do nữa. Jeff Sharlet không đề xuất một giải pháp thiết thực nào cho vấn đề này, song cuốn sách này là cách ông gióng lên tiếng chuông cảnh báo.

THE UNDERTOW: Scenes From a Slow Civil War | By Jeff Sharlet | Illustrated | 337 pp. | W.W. Norton & Company | $28.95

Joseph O’Neill’s novels include “Netherland,” which received the PEN/Faulkner Award for fiction, and “Godwin,” forthcoming next year.

https://www.nytimes.com/2023/03/21/books/review/the-undertow-jeff-sharlet.html

Saturday, November 2, 2024

Mỹ đã thắng Cuộc chiến thời trang (hoặc, chí ít là Trận chiến quần nỉ bo gấu) như thế nào?

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,

Quần áo thể thao giống như bộ trang phục năm 1952 này của Claire McCardell đã được thiết kế cho lối sống Mỹ năng động, ít trang trọng hơn.

Trong cuốn “Empresses of Seventh Avenue” (“Những nữ hoàng của Đại lộ Thời trang”), nhà văn chuyên viết về thời trang Nancy MacDonell kể câu chuyện về những người phụ nữ New York đã tạo ra phong cách hiện đại.

“Thanh lịch nghĩa là biết cự tuyệt”, Coco Chanel được cho là đã nói thế. Pierre Balmain nhắc nhở khách hàng của mình rằng “Khắt khe, luôn khắt khe”, trong khi Karl Lagerfeld chỉ rõ, khi nhằm vào những người không khắt khe, rằng: “Quần nỉ bo gấu là dấu hiệu của sự thất bại”. Thế còn Sonia Rykiel thì sao? “Làm sao bạn có thể sống cuộc sống thời thượng nếu không mang giày cao gót?”

Uy quyền của các nhà thiết kế thời trang vĩ đại của Pháp từ lâu không chỉ nằm ở những sáng tạo quyến rũ mà còn ở những tuyên ngôn giáo điều của họ thường hay được người ta trích dẫn. Và trong khi phản ánh sự đánh đồng mặc nhiên của người Pháp giữa cái đẹp với sự chịu đựng, những tuyên ngôn này đồng thời cho rằng kỷ luật – thậm chí là khó chịu – là điều kiện tiên quyết tất yếu của phong cách thanh lịch.

May mắn làm sao cho những ai trong số chúng ta nghiện quần áo nỉ và giày đế bằng vì các nhân vật nữ chính trong cuốn sách mới rất hấp dẫn của Nancy MacDonell là “Empresses of Seventh Avenue: World War II, New York City, and the Birth of American Fashion” (“Những nữ hoàng của Đại lộ Thời trang: Thế chiến II, Thành phố New York và Sự ra đời của Thời trang Mỹ”) đã ra mắt và giải phóng phụ nữ Mỹ khỏi sự chuyên chế của phong cách thời trang đẳng cấp của Pháp.

Trước Thế chiến II, sự chuyên chế đó là toàn trị ở New York, nơi là trung tâm thương mại hàng may mặc của Mỹ, cũng như ở Paris, nơi ra đời và là kinh đô ngành thời trang cao cấp của Pháp. Ngành này của Pháp đã cung cấp (và vẫn đang cung cấp) những tác phẩm thời trang lộng lẫy được chế tạo công phu, đắt đến chóng mặt và chủ yếu là lễ phục được thửa riêng cho nhóm khách hàng tinh hoa chỉ gồm vài trăm người trên toàn thế giới. Nhưng nó cũng là nguồn cảm hứng cho các bản sao thời trang cao cấp được sản xuất hàng loạt đã thống trị thị trường trang phục nữ ở Mỹ sau khi Thế chiến I chấm dứt.

Theo nhận xét của MacDonell, điều này chẳng mấy quan trọng đối với những nhà quản lý ngành may mặc ở Mỹ khi “những người phụ nữ đặt mua cả tủ quần áo từ các hãng thời trang cao cấp sống một cuộc sống hoàn toàn khác, với những nhu cầu hoàn toàn khác, so với những phụ nữ mua sắm quần áo may sẵn với ngân sách hạn hẹp”. Nó cũng chẳng khiến họ quan ngại về việc chiếc váy mà một nữ hầu tước mặc đến “những cuộc đua ngựa ở Auteuil” – một phụ nữ với ngân sách không giới hạn, có đầy tớ và “được miễn trừ khỏi những mối lo lắng thường nhật như công việc” – không có ý nghĩa gì mấy đối với “một nhân viên đánh máy ở Brooklyn” đang trên đường đến đảo Coney. Vậy là, cho đến khi lịch sử can thiệp vào, ngành may mặc Mỹ đã nhồi cho các nữ khách hàng những món quần áo đều đều vô vị mà họ không muốn hoặc không cần, gợi ý cho nhà thiết kế người Mỹ Elizabeth Hawes đặt ra một châm ngôn đáng nhớ của bà hồi năm 1938: “Thời trang là món rau chân vịt [nhạt nhẽo]."

Cách mà Hawes và một số phụ nữ Mỹ có tư duy tiến bộ khác làm cho đồng bào của họ dần từ bỏ trang phục màu xanh lá là câu chuyện đặc sắc mà MacDonell, nhà báo giữ chuyên mục thời trang của tờ The Wall Street Journal, kể lại bằng giọng văn sống động và những tình tiết lịch sử phong phú. Sự kiện mở đầu là cuộc xâm lược Paris của Đế chế Thứ Ba vào tháng 6 năm 1940, và tiếp theo sau đó việc thành phố này bị Đức Quốc xã chiếm đóng bốn năm liền. Thời kỳ này là thời kỳ đen tối đối với các nhà thiết kế thời trang Pháp, những người buộc phải đóng cửa các hãng thời trang của mình hoặc phải may đồ cho vợ một tên sĩ quan Đức Quốc xã thỉnh thoảng mới ghé thăm.



Sự kiện này cũng dẫn đến lệnh cấm vận đối với hàng xuất khẩu từ Paris đi Mỹ và các phóng viên Mỹ ở Paris: hai nguồn mà ngành may mặc của Mỹ trước đây dựa vào để tạo ra hàng nhái. Năm 1940, sự kiện Paris thất thủ dường như báo hiệu sự cáo chung của “thời trang” ở Mỹ, cho đến khi một nhóm những người có ý tưởng táo bạo ở New York phát triển giải pháp thay thế của-nhà-trồng-được hấp dẫn khó cưỡng: “thứ quần áo thoải mái, dễ mặc, tiện lợi, hầu như tùy tiện, có thể mặc được cho nhiều mục đích khác nhau”, được đặc trưng bởi “sự thanh lịch không giả tạo”. Thứ quần áo này đã tạo nên nền tảng của một thể loại hoàn toàn mới, rất Mỹ, được gọi là trang phục thể thao. Được lan tỏa trên quy mô lớn nhờ năng lực sản xuất hùng mạnh của Đại lộ Thời trang (Seventh Avenue), nó nhanh chóng cách mạng hóa trang phục của phụ nữ.

Những nhà thiết kế dẫn đầu cuộc cách mạng này là Hawes và Claire McCardell, một người cũng là nhà tiên phong về trang phục thể thao như bà, nhưng như MacDonell nhấn mạnh, họ đã nhận được sự hỗ trợ cốt yếu từ những nhân vật có tầm nhìn xa trông rộng giống họ trong nhiều lĩnh vực liên quan. Các nhân vật khác trong dàn toàn phụ nữ và đa dạng của bà gồm từ những biên tập viên tạp chí như Carmel Snow và Diana Vreeland, những người đấu tranh không mệt mỏi vì xu hướng thẩm mỹ mới “đơn giản hơn, phong cách hơn và đỡ rườm rà hơn”, cho đến các phóng viên thời trang như Virginia Pope và Lois Long, cả hai đều là “những người ủng hộ thời trang Mỹ rất trung thành.” Chúng ta sẽ gặp những nhà bán lẻ sáng tạo như Dorothy Shaver của chuỗi cửa hàng bách hóa Lord & Taylor, người phụ nữ đầu tiên ở Mỹ kiếm được mức lương sáu con số, và những chuyên gia PR sáng tạo như Eleanor Lambert, người phát minh ra Danh sách mặc đẹp nhất quốc tế và Lễ hội thời trang Met Gala.

Chỉ trong vòng vài năm, những người phụ nữ này đã tạo dựng nên ngành thời trang Mỹ như ngày nay chúng ta vẫn biết về nó. Ít hình thức và cầu kỳ, nó vẫn là thành trì của phong cách thanh lịch thoải mái, phóng khoáng, hoàn toàn hiện đại, và mặc dù đã phát triển thành một ngành kinh doanh hàng tỷ đô-la, nó vẫn hoạt động trên nguyên tắc rằng thời trang có thể “vừa đẹp đẽ vừa dân chủ”.

Việc những người phụ nữ đằng sau câu chuyện thành công vĩ đại này đến nay hầu hết bị lãng quên là một sai sót mà MacDonell đã sửa lại với sự nhiệt tình và, tôi dám nói rằng, sự thanh lịch – đơn giản là cự tuyệt cái tiền đề đã lỗi thời rằng người Pháp là “những quan tòa duy nhất khả dĩ về phong cách”.

EMPRESSES OF SEVENTH AVENUE: World War II, New York City, and the Birth of American Fashion | By Nancy MacDonell | St. Martin’s | 358 pp. | $32

Caroline Weber, a professor of French and comparative literature at Barnard College and Columbia University, is a frequent contributor to the Book Review.

How America Won the Fashion War (or, at Least, the Sweatpants Battle)

https://www.nytimes.com/2024/09/01/books/review/nancy-macdonell-empresses-of-seventh-avenue.html

Một trại tị nạn ở Hy Lạp bị cháy rụi. Hậu quả thậm chí còn tai hại hơn.

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,




Trận hỏa hoạn thảm khốc năm 2020 trên đảo Lesbos là cú huých để suy ngẫm về những câu chuyện về nguồn gốc, biên giới và cuộc di cư trong cuốn sách “A Map of Future Ruins” (“Bản đồ tàn tích tương lai”) của Lauren Markham.

Hơn ba năm sau sự cố đó, chúng ta vẫn chẳng biết gì nhiều về vụ việc đã xảy ra ngày 8/9/2020 ở trại di tản có tên Moria trên hòn đảo Lesbos của Hy Lạp. Đêm đó, một ngọn lửa bùng phát ở Khu 6 của trại Moria, một trong những khu vực tạm thời tiếp giáp các bức tường của khu trại chính. Ngọn lửa thiêu rụi những căn lều, than hồng bị gió cuốn đi, khiến hầu hết trong số 11.000 cư dân của Moria trở thành vô gia cư.

Gần như mọi thứ khác về vụ hỏa hoạn này đều gây tranh cãi. Chỉ trong vài ngày, chính quyền Hy Lạp bắt giữ sáu thanh niên Afghanistan, kết án họ trong hai phiên tòa gấp gáp trong vòng chín tháng tiếp theo. Trong một phiên tòa, các thẩm phán nghị án chỉ chưa đầy 10 phút trước khi đưa ra phán quyết có tội; trong phiên tòa còn lại, nhân chứng duy nhất của chính phủ, lời khai của người này vốn đã hổng lỗ chỗ, thậm chí còn chẳng có mặt tại tòa.

Theo lời Lauren Markham, thời điểm đó do những cấm chế vì đại dịch Covid, nên đây là những tháng cô phải “theo dõi vụ án từ xa”. Cô đã đến trại Moria hồi năm 2019, trải nghiệm mà cô miêu tả trong “A Map of Future Ruins”, cuốn sách mới đầy suy tư của cô về biên giới và danh tính. Năm 2021, cô quay trở lại Hy Lạp, nơi các giới chức “hết lần này đến lần khác từ chối cung cấp bằng chứng hoặc sự thật về vụ án”, ngăn chặn nỗ lực tường thuật của cô. (Phiên phúc thẩm của các bị cáo, ban đầu được lên lịch vào năm ngoái, nay được cho là ​​​​sẽ diễn ra vào tháng Ba.) Cô kết luận rằng sáu bị cáo “không phóng hỏa – tuyệt đối không có bằng chứng”.

Vụ hỏa hoạn ở trại Moria hóa ra chỉ là một phần của câu chuyện cô muốn kể. Markham là tác giả của “The Far Away Brothers” (“Anh em từ viễn xứ” – xuất bản năm 2017), câu chuyện tuyệt hay được kể một cách hùng hồn về cặp anh em song sinh người Salvador đã đến Mỹ khi còn niên thiếu, chạy trốn bạo lực ở quê hương. “A Map of Future Ruins” tham vọng hơn và cũng lan man hơn, đan xen các bối cảnh từ Hy Lạp đương đại với câu chuyện lịch sử về cuộc di cư của chính gia đình Markham từ Hy Lạp một thế kỷ trước, cùng chuyến vòng vèo đến một khách sạn băng ở vùng biên giới giữa Nga và Na Uy và một chương ngắn viết về những gì con người có thể học được từ cây cối.

“Rốt cuộc câu chuyện về trại tị nạn Moria không chỉ kết nối với mà còn là trung tâm giữa cuộc điều tra sâu rộng hơn của tôi về cơ chế thuộc về, loại trừ và da trắng trong một thế giới dầy đặc những đường biên giới, là cuộc điều tra đã đưa tôi đến Hy Lạp ngay từ đầu – và là trung tâm cho cuốn sách mà cuối cùng tôi sẽ viết, chính là cuốn sách này mà bạn đang cầm trên tay, khác xa so với những gì thoạt đầu tôi tưởng tượng về nó,” Markham giải thích ngay đầu cuốn sách. Đây là câu văn phức rối, truyền tải những hiểm họa của cách tiếp cận mở rộng đến thế. Khi cô miêu tả những gì mình chứng kiến, những quan sát của cô rất sinh động; khi cô bắt đầu suy tưởng, câu văn trở nên lê thê. Trong khi cuốn sách trước của cô đầy sức sống bởi một nét đặc trưng kiên định, thì “A Map of Future Ruins” đôi khi lại vòng vèo quá xa đến nỗi mất phương hướng.



Hy Lạp là chủ đề phong phú không cần phải bàn cãi, với tư cách một địa điểm cũng như tư cách một phép ẩn dụ. Là “nơi khai sinh ra nền dân chủ” được ngợi ca, xứ sở này, với quá khứ thần thoại của mình, đã trở thành chất liệu cho sự hoài cổ, hình tượng của nó trở thành chất liệu cho sự kính ngưỡng. Bọn Đức Quốc xã và những kẻ ủng hộ thuyết người da trắng thượng đẳng đã đưa ra những phiên bản bị bóp méo của Hy Lạp cổ đại để khẳng định tính ưu việt của phương Tây. Thế nhưng như Markham ám chỉ, những rắc rối hiện tại của xứ sở này khiến toàn bộ sự thần thoại hóa dường như càng vô vọng và kỳ quái hơn.

Cô viết: “Hy Lạp, với nạn tham nhũng không gì kiềm chế được, nghèo đói lan rộng và ngày càng ngả sang khuynh hướng chuyên quyền, giờ đây đã coi thường câu chuyện về nguồn gốc của chính nó”. Markham thấu hiểu những sự đảo ngược, những nghịch lý và những khác biệt về ý nghĩa. Thế giới càng trở nên toàn cầu hóa thì “rất nhiều người trong chúng ta càng nhiệt tình khao khát một hệ thống gốc rễ ràng buộc chúng ta”. Tuy vậy, rất nhiều thứ cô tình cờ bắt gặp là “phi lý”: những con hồng hạc (“những thứ ngớ ngẩn màu hồng rực rỡ trên hòn đảo khô cằn này của Hy Lạp”); đề xuất xây bức tường nổi trên mặt biển Aegea (“thứ gì đó từ một cuốn tiểu thuyết phi lý”); phản ứng của chính cô khi ai đó nói rằng trông cô như người Hy Lạp (“câu nói đó, thật phi lý, khiến tôi hởi dạ”).

Và rồi đến mối quan hệ dường như đầy cảm xúc của cô với chính cuốn sách của mình. “Tôi biết sẽ là phi lý và vô nhân đạo nếu cố đem so sánh câu chuyện của chính gia đình tôi với câu chuyện của những người tị nạn ngày nay,” cô viết, và cô (sáng suốt) không cố làm bất kỳ điều gì như vậy. Thế nhưng cuốn sách của cô lại bao gồm những tình tiết từ câu chuyện của gia đình cô và nó cũng bao gồm những tiết đoạn về những người tị nạn ngày nay. Cô bày tỏ rằng cô khước từ việc vạch ra các mối liên kết như một vấn đề nguyên tắc, đồng thời tuyên bố tại một số điểm rằng cô ngày càng thất vọng với ngành báo chí, “một ngành moi móc”, và cái “logic trình tự” chi phối cách kể chuyện tuyến tính.

Thế nên cô đưa ra một loạt các cảnh có chủ đề theo quy ước nhằm tạo ấn tượng, một số trong số đó là những đoản văn từ những chuyến đi của cô ở Hy Lạp – nơi chốn cô khao khát được biết rõ và thấy một phần của mình trong đó, trong khi nó dường như khiến cô bối rối ở mỗi lối rẽ. Cô thấy một người phụ nữ đang nói chuyện với một con vịt và gặp một người đàn ông nói rằng anh ta biết cách “nói tiếng chim”. Chồng cô bị một con lừa cắn, và ngay sau đó họ phát hiện ra một vài con rắn đang quằn quại trên mặt đất. “Con lừa bị phù phép này, những con rắn xoay tròn này, giống như những bức thư cần giải mã,” cô viết, “nhưng tôi lại ở đây lần nữa, cố nắm bắt ý nghĩa.”

Bị lạc lối là một chủ đề. Sự hoài cổ được thúc đẩy bởi những kiểu lạc lõng khác cũng vậy. Markham thường hay trích dẫn Svetlana Boym, nghệ sĩ và học giả: cuốn “The Future of Nostalgia” (“Tương lai của sự hoài cổ” – xuất bản năm 2001) của chị rõ ràng là nguồn cảm hứng cho cô. Tuy nhiên, ở nơi mà những suy ngẫm của Boym được củng cố bằng lập luận tài tình và độc đáo của chị về những cách mong nhớ khác nhau về một quá khứ có thể chưa từng tồn tại, Markham lại lạc lối trong sự lạc lõng của mình. “A Map of Future Ruins” là bức tranh cắt dán mà các mảnh ghép chẳng bao giờ hoàn toàn ăn khớp với nhau. Ngay cả vụ hỏa hoạn ở trại tị nạn Moria, mà cô gọi là “trung tâm” cho cuộc điều tra của mình, cũng không cung cấp được là mấy về mặt chỉ dẫn.

“Bất kỳ ai phóng hỏa – nếu quả thực đó là vụ phóng hỏa có chủ ý – hẳn là đã cố gắng phá hoại một trật tự nào đó của vạn vật đã được nhận biết, nghĩa là, để viết lại câu chuyện.” Lời khẳng định đó đáng tin cậy. Nhưng đây là cảm nghĩ chung chung đầy dè dặt đến nỗi nó khiến bạn giống như Markham trong những chuyến du hành của cô: nắm bắt ý nghĩa mà chẳng biết đi đâu.

A MAP OF FUTURE RUINS: On Borders and Belonging | By Lauren Markham | Riverhead | 259 pp. | $28

Jennifer Szalai is the nonfiction book critic for The Times.

https://www.nytimes.com/2024/02/14/books/review/lauren-markham-a-map-of-future-ruins.html

Friday, November 1, 2024

Các vị sếp cảnh sát này đang hành động để thay đổi nhận thức

nguồn: New York Times,

biên dịch: Takya Đỗ,



Trong “Walk the Walk” (“Nói là làm”), Neil Gross miêu tả ba sở cảnh sát nước nhà đang thử nghiệm một cuộc cải cách thực thụ.

Khi nói đến hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát, đất nước này không dành cho những người lạc quan: Dường như rất ít người Mỹ tin vào hứa hẹn cải cách.

Ở phía cánh tả, những cảnh sát theo chủ nghĩa bãi nô nhấn mạnh rằng hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát ở Mỹ gắn kết hết sức chặt chẽ với nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực đến nỗi những nỗ lực cải cách nhìn vào mặt tích cực nhất là không thích đáng và nhìn vào mặt tiêu cực nhất là bất chính, vì nó được sử dụng để biện minh cho một thể chế hung tàn bạo ngược. Ở phía cánh hữu, những người tự thể hiện mình là người ủng hộ “bộ cảnh phục xanh lam” khẳng định những cải cách mang tính chất “cảnh giác trước thành kiến chủng tộc và phân biệt chủng tộc” dẫn đến tình trạng các sở cảnh sát không được cung cấp tài chính đầy đủ và bị sa ngã, buộc phải bất lực ngồi nhìn ​​tội phạm bạo lực gia tăng.

Thế còn phía trung dung thì sao? Mặc dù các cuộc thăm dò cho thấy đa số người Mỹ ủng hộ cải cách cảnh sát, nhưng chưa đến 1/3 cho biết họ lạc quan là sẽ có tiến bộ. Tại Quốc hội, những nỗ lực lớn về cải cách của ngành cảnh sát đã dậm chân tại chỗ, và tình trạng này dường như khó có khả năng thay đổi.

Giữa mọi hoài nghi này xuất hiện cuốn sách mới của Neil Gross, giáo sư xã hội học của Đại học Colby. Trong cuốn “Walk the Walk: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture” (“Nói là làm: Ba vị sếp cảnh sát đã vượt qua nghịch cảnh và thay đổi văn hóa cảnh sát ra sao”), Gross trình bày một luận cứ sáng suốt và nhiệt thành ủng hộ giá trị của những thay đổi nho nhỏ về văn hóa, lần lượt từng sở cảnh sát một.

Gross cảm thấy ngã lòng trước bầu không khí bi quan đang lan rộng trong các nhà hoạch định chính sách. Cứ như thể, ông viết, họ “không thể tưởng tượng được hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát một cách đạo đức, hiệu quả và dân chủ sẽ có tác dụng thế nào”. Song nếu những cuộc cải cách đã không mang lại kết quả trong quá khứ, theo lập luận của ông, chẳng phải là vì chúng không thể mang lại kết quả, mà là bởi những nhà cải cách chưa quan tâm đủ mức đến sự cần thiết phải làm thay đổi triệt để văn hóa cảnh sát, vốn “khét tiếng là khép kín” và “nghi ngờ người ngoài”. Việc bắt buộc tiến hành cải cách ở các sở cảnh sát đầy rẫy những sĩ quan chai sạn, luôn hoài nghi cũng giống như gieo hạt giống cỏ lên tấm kim loại: Nếu cỏ không mọc, ta không thể đổ lỗi tại hạt giống.

Nhưng mặc dù văn hóa hành pháp thiển cận có thể khiến các sở cảnh sát cực lực phản đối cải cách, Gross – người từng là sĩ quan cảnh sát một thời gian ngắn hồi đầu những năm 1990 ở Berkeley, California – khăng khăng rằng việc thay đổi triệt để hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự an ninh của cảnh sát vừa là cần thiết vừa có thể thực hiện được. Chính hàng ngũ lãnh đạo, theo lập luận của ông, là những người có ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi: Văn hóa hành pháp có thể thay đổi khi các sở cảnh sát có những vị lãnh đạo sáng tạo có “đầu óc tổ chức, kỹ năng giao tiếp với các cảnh sát và người dân, nhận thức lịch sử, tính khiêm tốn và sự kiên trì”.

Các vị sếp giỏi biết khi nào nên thúc giục, và khi nào nên tạo áp lực một cách nhẹ nhàng. Họ cho làm quen với những cải cách tăng dần, thay vì bắt buộc phải thay đổi trước khi các sĩ quan sẵn sàng thay đổi – và khi các sở cảnh sát trở nên cởi mở hơn với việc thay đổi, những cải cách tăng dần đó có thể bắt đầu gia tăng. Khi chúng ta có thêm nhiều sự hợp tác chặt chẽ của cảnh sát với cộng đồng, thêm nhiều sự sẵn lòng giảm bớt việc dừng phương tiện giao thông đối với những vi phạm nhỏ, thêm nhiều lựa chọn thay thế cho việc giam giữ và thêm nhiều nỗ lực hơn để tuyển dụng lực lượng cảnh sát đa dạng, mọi thứ sẽ trở nên tốt hơn đối với các cộng đồng này. Sẽ có ít vụ lạm quyền của cảnh sát hơn, ít vụ bắt giữ hơn – và ít tội phạm hơn.

Gross dàn ý cuốn sách của mình xoay quanh ba nghiên cứu điển hình: Stockton, tiểu bang California; Longmont, tiểu bang Colorado; và LaGrange, tiểu bang Georgia. Ở một số phương diện, ba thành phố đó khó mà khác nhau hơn được nữa, song theo lời Gross, mỗi thành phố đều được hưởng lợi vì có vị sếp cảnh sát tận tâm, giàu sáng tạo mà mọi sở cảnh sát đều cần có.

Tại Stockton, vị sếp sở cảnh sát là Eric Jones ủng hộ khái niệm “công lý tố tụng”, phương thức hoạt động nghiệp vụ của cảnh sát nhấn mạnh vào tính minh bạch, công bằng, vô tư và sẵn sàng cho phép công dân lên tiếng. Ông hỗ trợ các sĩ quan khi họ phát triển chương trình đào tạo mới về công lý tố tụng; ông thành lập ban cố vấn cộng đồng và tổ chức các hội thảo xây dựng lòng tin với những người chỉ trích cảnh sát. Nhưng ông cũng chiếm được lòng tin từ các sĩ quan của mình bằng cách lắng nghe những mối quan tâm của họ. Ông kiếm được khoản tài trợ cho các thiết bị mới đắt tiền và quan tâm đến việc tăng cường mối quan hệ tốt đẹp với công đoàn của cảnh sát.

Ở LaGrange, vị sếp sở cảnh sát là Lou Dekmar cũng đầu tư như vậy vào thiết bị mới và tăng lương cho các sĩ quan, song ông cũng đưa ra các chính sách bắt buộc phải giảm bạo lực và xung đột và cải thiện việc đào tạo sĩ quan. Trong thời gian làm sếp sở cảnh sát, ông tăng đáng kể tỷ lệ giải quyết các vụ án mạng của Sở Cảnh sát và giảm việc sử dụng vũ lực của cảnh sát. Năm 2017, Dekmar thành tin nóng trên báo đài toàn quốc khi công khai xin lỗi về sự đồng lõa của sở cảnh sát trong vụ hành hình kiểu lynch một thanh niên da đen hồi năm 1940.

Ở Longmont, vị sếp sở cảnh sát là Mike Butler ủng hộ “công lý phục hồi”, phương pháp tiếp cận tội phạm – khi có sự đồng ý của nạn nhân – cho phép thủ phạm thừa nhận tổn thương mà chúng gây ra, xin lỗi và bồi thường thay vì phải đối mặt với việc bị truy tố và bỏ tù. Ông cũng áp dụng phương pháp giảm thiểu tác hại đối với việc sử dụng ma túy. Thay vì cố gắng “ngăn chặn việc sử dụng ma túy bằng cách truy tố hình sự các nhà sản xuất, người buôn bán và người sử dụng”, Butler tập trung vào việc liên kết cảnh sát với các dịch vụ xã hội “để điều trị chứng nghiện và cải thiện các nguyên nhân cốt lõi của nó”. Phương pháp này thừa nhận rằng mặc dù việc loại bỏ hoàn toàn tội phạm liên quan đến ma túy là phi thực tế, nhưng việc đảm bảo rằng người sử dụng ma túy gây “tổn hại ở mức ít nhất cho bản thân họ và cho cộng đồng” nằm trong khả năng của chúng ta.

Với tư cách một câu chuyện, “Walk the Walk” không thành công trọn vẹn. Gross nhảy từ chuyện này sang chuyện khác, ông thường giới thiệu những nhân vật và giai thoại mới không hoàn toàn gắn kết với lập luận trọng tâm của cuốn sách. Tác giả cố gắng miêu tả các sĩ quan cảnh sát là những người nhân đạo bằng cách tập trung vào Jones, Dekmar và Butler, nhưng các nhân vật chính của ông vẫn tẻ nhạt – những nhân vật thể hiện đức hạnh trong một vở kịch đạo đức, thay vì những con người phức tạp.

Độc giả mà Gross nhằm đến cũng có phần không rõ ràng. Mặc dù ông đưa chuyên môn của một học giả vào chủ đề của mình, song thỉnh thoảng ông cố gắng đạt được sự dễ hiểu thì lại làm hỏng sắc thái, và văn phong của ông ngoặt sang lối đơn giản thái quá. Có lúc ông lao vào sự khuôn sáo: “Đất nước này như một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung”.

Nghiêm trọng hơn, Gross không giải quyết được đầy đủ luận đề con-gà-và-quả-trứng, luận đề khiến cho sự thay đổi triệt để của cảnh sát trở nên rất khó nắm bắt: Những thay đổi về chính sách sẽ không hiệu quả trừ phi văn hóa cảnh sát thay đổi, nhưng không rõ văn hóa cảnh sát có thay đổi được hay không nếu không thay đổi chính sách. “Walk the Walk” dựa dẫm hơi nhiều quá vào vị Sếp Cảnh sát tốt bụng như một vị cứu tinh bất ngờ xuất hiện. Nhưng những nhà lãnh đạo mang đến sự thay đổi triệt để này ở đâu ra? Liệu đội ngũ lãnh đạo như vậy có thể được bồi dưỡng, hay đó chỉ là tình huống hoàn toàn ngẫu nhiên? Liệu những cải cách từ trên xuống có mang lại kết quả nếu không có thay đổi từ dưới lên? Không phải lúc nào Gross cũng đặt câu hỏi – hoặc có sẵn câu trả lời.

Dù sao mặc lòng, “Walk the Walk” vẫn là cuốn sách sâu sắc và quan trọng. Vào thời điểm đất nước này quả thực là một thùng thuốc súng đang chờ nổ tung, sự lạc quan của Gross về cải cách cảnh sát mang lại liều thuốc giải độc cho sự hoài nghi và u ám thâm nhập hầu khắp các cuộc thảo luận như vậy. Cuốn sách của ông đầy sự đồng cảm và tính thực dụng. “Chúng ta không thể xóa sổ lực lượng cảnh sát, không phải trong tương lai gần,” ông cảnh báo – nhưng mặc dù những viễn cảnh không tưởng về một thế giới không có hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát có thể rất xa tầm với, cũng chẳng có lý do gì để từ bỏ những cải cách nhỏ hơn.

Gross chưa từng tuyên bố thẳng thừng điều đó, nhưng cách ông tiếp cận hoạt động bảo vệ pháp luật và giữ gìn trật tự trị an của cảnh sát – chẳng khác gì phương pháp tiếp cận việc sử dụng ma túy của vị sếp sở cảnh sát Butler kia – tập trung vào việc giảm thiểu tác hại. Gross thừa nhận rằng việc tạo ra một văn hóa cảnh sát tốt đẹp hơn không phải là “cái thay thế cho sự thay đổi về cơ cấu trong hệ thống tư pháp hoặc trong xã hội Mỹ nói chung”, và những cuộc cải cách sẽ không hủy bỏ được di sản độc hại của nạn phân biệt chủng tộc và bạo lực. Tuy nhiên, một số sở cảnh sát tốt hơn những sở khác, và mọi sở cảnh sát đều có thể tốt hơn lên.

Nếu chúng ta có thể “thúc giục các cơ quan ở địa phương chúng ta thay đổi suy nghĩ về văn hóa và hoạt động của họ” và hỗ trợ các lãnh đạo cảnh sát sáng suốt như Jones, Dekmar và Butler, các cộng đồng của chúng ta có thể trở thành những nơi an toàn hơn, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Đơn giản thái quá ư? Chắc thế. Nhưng nó còn tốt hơn rất nhiều so với không có gì.

WALK THE WALK: How Three Police Chiefs Defied the Odds and Changed Cop Culture | By Neil Gross | 259 pp. | Metropolitan Books | $27.99

Rosa Brooks is a professor at Georgetown University Law Center and the author of “Tangled Up in Blue: Policing the American City.”

https://www.nytimes.com/2023/03/21/books/review/walk-the-walk-neil-gross.html

Từ những lá bài Tarot đến thiết kế tối giản, chúng ta không đừng được việc dự đoán tương lai

nguồn: New York Times, biên dịch: Takya Đỗ, Trong cuốn “A Century of Tomorrows” (“Một thế kỷ trong tương lai”), tác giả Glenn Adamson cho ch...